Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Để xây dựng thành công quy chế lương của doanh nghiệp - Human Resources

Để xây dựng thành công quy chế   lương   của doanh nghiệp

Việc đầu tư xây dựng quy chế tiền lương tốt trong cơ quan thành một loại hình văn bản riêng và phổ thông đến mọi nhân sự như một phần của văn hóa cơ quan là rất nên làm.

Vấn đề lương lậu có ảnh hưởng tới tất cả các phương diện trong nội dung quản trị nguồn nhân lực của một tổ chức và là mối quan hoài hàng đầu của người lao động.

Người cần lao mong sự công bằng trong lương thuởng không những vì thu nhập mà còn vì lòng tự tôn. Họ cảm thấy bị xúc phạm khi kết quả làm việc của họ hơn một số người nào đó (có thể là trong hoặc ngoài doanh nghiệp)mà vẫn phải chịu một mức lương thấp hơn.

Đơn vị muốn tạo động lực làm việc tốt cho nhân viên thì phải chứng minh được rằng chỉ có kết quả làm việc tốt mới cạnh tranh được mức lương.

Lợi ích mang lại từ quy chế lương lậu tốt

Một hệ thống lương bổng và tiền công tốt sẽ duy trì hàng ngũ ngày nay và đảm bảo đối xử công bằng với tất cả mọi người, có tác dụng nâng cao hiệu suất và chất lượng cần lao, giúp doanh nghiệp thu hút và duy trì được những viên chức giỏi. Vậy các lợi ích mang lại từ quy chế lương thuởng tốt là:

* Giúp thu hút và giữ lại các nhân viên cấp thiết
* Không phải trả lương lậu và tiền công quá cao
* Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác trả lương hàng ngày
* Giúp giải thích cho nhân viên về những chênh lệch lương lậu
* Tạo một cơ sở kiên cố để ước tính quỹ lương


Dựa vào đâu để ấn định mức lương

Để xây dựng được mức lương bảo đảm được tính hợp lý, khách quan và chính xác thì công ty phải có năng lực nghiên cứu vấn đề tiền lương dựa trên 3 bình diện: Quy định của pháp luật, thị trường bên ngoài và những yêu tố bên trong doanh nghiệp.

1. Quy định của pháp luật:

Tìm hiểu và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về các vấn đề cần lao trước khi xây dựng cơ chế trả lương là việc làm bắt buộc. Doanh nghiệp cần lưu ý đến các vấn đề như mức lương tối thiểu quốc gia quy định hiệp đồng và lương thử việc, lương thời vụ, lương trong kỳ thai sản, ốm đau, mất việc...

2. Thị trường bên ngoài:

* Khảo sát mức lương trên thị trường lao động: liên tiếp rà soát lại các mức lương trong công ty của bạn dựa trên các mức lương của đối thủ cạnh tranh và dựa trên mức lương chuẩn trên thị trường. Điều này sẽ làm cho nhân viên hết boan khoăn xem mức lượng hiện tại của họ có cạnh tranh không?

* Tính đến nhân tố biến động của giá cả sinh hoạt: Khi xác định mức lương cần xem xét đến nguyên tố biến động của giá cả sinh hoạt. Khi nền kinh tế quốc dân vẫn còn trong giai đoạn chuyển đổi và mức lương chung còn thấp, việc xem xét các nhu cầu căn bản của con người có ý nghĩa đặc biệt quan yếu.

3. Các nhân tố bên trong tổ chức

* Xác đinh đơn giá và quỹ lương thuởng của tổ chức: Xác định đơn vị cần phải chi bao lăm cho tiền lương và tỷ lệ trên doanh thu là bao lăm và đó chính là đơn giá lương lậu trong năm. Đơn giá này sẽ là cơ sở để xác định lương căn bản cho các nhóm chức danh, căn cứ để tính lương khoán trên doanh thu hay đơn vị sản phẩm.

* Phản ánh giá trị công việc: Khi xác định mức lương cho một người, phải coi xét giá trị công tác người đó mang lại cho tổ chức.

* Thâm niên công tác: dù rằng giá trị công việc là yêu tố chính trong quy trình xác định mức lương song vẫn phải xem xét các nhân tố như thâm niên công tác( số năm phục vụ, kinh nghiệm...) Theo các giá trị xã hội phổ quát.

* Căn cứ vào kết quả làm việc: Việc tăng lương và chia tiền thưởng phải dựa trên kết quả làm việc. Cần phải có một hệ thống đánh giá kết quả làm việc hoàn chỉnh để tạo động lực cho những nhân viên có kết quả làm việc cao.


Quy trình xây dựng quy chế tiền lương trong công ty


Nhận thức được tầm quan trọng của quy chế lương lậu trong cơ quan và có được những tri thức căn bản về vấn đề lương người chủ đơn vị sẽ xây dựng được một quy chế lương bổng theo quy trình đơn giản sau:

Bước 1: Lấy ý kiến và quan điểm của nhân sự

Mục đích của trưng cầu ý kiến viên chức là để tránh được những sai trái mang tính chủ quan, áp đặt. Tuy nhiên còn cho người lao động cảm thấy được tôn trọng vì họ được tham dự quyết định việc tính lương. Bởi thế các vấn đề sau cần được trưng bày quan điểm:

(1)Ưu điểm của cơ chế trả lương hiện tại?

(2)Nhược điểm của cơ chế trả lương hiện tại?

(3)Những vấn đề cần khắc phục?

(4)Mong muốn và quan điểm của mỗi người về tính hợp lý, sự công bằng trong cách tính lương?

Bước 2: Chủ tổ chức biên soạn thảo quy chế tiền lương

Sau khi thực hiện xong bước 1 thì người chủ cơ quan tổng hợp các quan điểm lại để xem xét. Đồng thời dựa vào các nhân tố để ấn định mức lương ở trên để soạn thảo quy chế tiền lương cho doanh nghiệp mình.

Bước 3:Ban hành, ứng dụng và định kỳ kiểm tra, sửa đổi, bổ sung quy chế

Trước khi ban hành ứng dụng quy chế cần họp phổ quát và lấy quan điểm của nhân sự. Quy chế lương càng rõ ràng, minh bạch thì tinh thần và động lực của viên chức càng cao. Mức trả cho mỗi người là bí ẩn nhưng cách tính lương phải rõ ràng và dễ hiểu. Sau khi ứng dụng, nên nhớ rằng cơ chế hoặc chính sách trả lương không thể là bất biến mà nó cần được xem xét và đánh giá, sửa đổi cho phù hợp với bối cảnh kinh doanh và những đề xuất mới.

Quantri.Vn

Những chú ý đối với nhà   tuyển dụng   khi ký giao kèo   tuyển dụng

Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, hồ hết các cơ quan đều yêu cầu nhân sự mới trải qua thời gian thử việc. Sau giai đoạn này, đơn vị sẽ biết chắc nhân viên mới được tuyển có thích hợp với vị trí của cơ quan hay không. Tuy nhiên trong thực tại có không ít trường hợp đến khi soạn thảo hiệp đồng lao động chính thức, nhà quản trị vẫn còn băn khoăn, e rằng mình đã chọn nhầm người.

Sau đây là sáu cách giúp bạn tránh đi tình huống trên:

1. Biểu đạt công việc chi tiết và cụ thể với nhân sự

Dù nhân viên thử việc mới ra trường hay đã có 2-3 năm kinh nghiệm, việc đầu tiên bạn nên làm là miêu tả công việc một cách chi tiết và cụ thể với họ. Bạn nên dùng một bản biểu đạt công việc (job description) rõ ràng, trong đó ghi các mục tiêu công tác chính cần làm; các mối quan hệ cần xây dựng; chức năng, bổn phận, quyền hạn của nhân viên; điều kiện làm việc… Việc này sẽ giúp bạn tránh được nhiều phiền phức về sau, chẳng hạn như khi viên chức phàn nàn: “Đấy không phải là việc của tôi!”

2. Xác định rõ tiêu chí kiểm tra hiệu quả thử việc

Trước khi nhân sự chính thức khởi đầu thời đoạn thử việc, điều trước nhất bạn cần làm là xác định rõ xem thêm cách bạn kiểm tra hiệu quả công tác, bao gồm khuôn khổ và lĩnh vực kiểm tra, mục đích cần đạt được, thời kì hoàn tất công tác… lưu ý mục đích thử việc phải rõ ràng và lượng hóa được. Nếu nhân viên chưa đồng tình với các tiêu chí đánh giá này thì hai bên hãy cùng nhau bàn luận cho đến khi đạt được thỏa thuận.

3. Cho phản hồi mau chóng và cụ thể

Viên chức mới thường gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn thử việc nên bạn cần cho họ phản hồi về công việc chóng vánh và cụ thể. Nếu họ đạt được một thành tích nào đó (dù nhỏ) thì hãy ngợi khen, động viên để họ thêm tự tin. Đối với những việc họ làm chưa tốt, hãy chính trực góp ý trên tinh thần xây dựng để họ cố gắng hơn và luôn đề nghị biện pháp chứ đừng chỉ nêu ra vấn đề. Anh Toàn, nhân sự kinh doanh của một tổ chức CNTT, tâm tư khi anh thử việc tại doanh nghiệp X, sếp anh thường phê bình: “Em làm như thế là sai rồi!” tuy nhiên, khi anh thắc mắc thế nào mới đúng thì sếp lúng túng. Cho phản hồi kiểu như vậy sẽ khiến tâm lý nhân viên bị ức chế, từ đó hiệu quả làm việc giảm sút hay viên chức uất ức bỏ đi.

4. Cung cấp mọi điều kiện cấp thiết cho nhân viên

Muốn nhân sự thử việc biểu thị được hết năng lực của mình, bạn phải cung cấp cho họ tất cả điều kiện làm việc cần thiết, từ máy vi tính, điện thoại, danh thiếp đến phí đi lại. Việc này cần được tiến hành trước khi viên chức đến nhận việc. Đừng để xảy ra tình trạng mà anh Dương, nhân viên kinh doanh của một nhãn hàng keo công nghiệp, đã gặp phải vào ngày đến làm việc tại một công ty kinh doanh hóa chất. Anh đã phải chờ đến hơn ba tiếng đồng hồ mới có bàn để làm việc và hai tuần mới có điện thoại bàn để liên lạc với khách hàng.

5. Cho nhân viên thử việc thời cơ để tu chỉnh sai sót

Việc nhân viên mới phạm sơ sót trong lúc thử việc không phải là hãn hữu. Là nhà quản trị, bạn nên tìm hiểu kỹ lý do, nhắc nhở, góp ý và cho họ thời cơ để tu chỉnh sai lầm. Đừng vội “trảm” họ ngay vì như thế rất có thể bạn sẽ bỏ phí một người tuy chưa “thập toàn” nhưng lại có tố chất thật sự cấp thiết cho nghề nghiệp.

6. Thực hành đầy đủ phỏng vấn mất việc (exit interview)

Dù viên chức mới thử việc không thành công, bạn cũng nên thực hành phỏng vấn nghỉ việc cho họ. Hãy nêu rõ lý do bạn không nhận họ để họ rút kinh nghiệm ở những lần thử việc sau. Nếu bạn cho một viên chức nghỉ việc do hành vi cư xử quá kém, bạn cần nói đúng sự thật để tránh những rối rắm pháp lý có thể xảy ra.

Để quyết định nhận một nhân viên thử việc, thường nhật bạn phải phỏng vấn người đó tối thiểu hai lần, rất tốn kém thời kì và chi phí. Bởi vậy, đến lúc họ thử việc, bạn cần đầu tư công sức thỏa đáng để giai đoạn này đạt được kết quả tốt nhất. Đó cũng là cách để bạn tìm được nhân viên “vàng mười” thật sự cho đơn vị.

Quantri.Vn

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2015

Quản trị nhân sự theo định hướng thị trường

Quản trị   nhân sự   theo định hướng thị trường

Dù các doanh nghiệp có đặt trọng điểm vào việc tìm, giữ người và thực hành nhiều biện pháp để giữ người nhưng rõ ràng khó tránh được việc những viên chức giỏi có thể bị chiêu dụ hay tự tách tổ chức rời bỏ vào bất cứ lúc nào.

Nếu không tránh được thực tại đó thì liệu có cách nào sống chung với nó?

Chiến lược nhân sự theo định hướng thị trường

 Trước nhất, cần bằng lòng thực tiễn là không phải tổ chức mình mà chính thị trường mới có khả năng quyết định sự chuyển dịch của nguồn nhân công. Bản thân doanh nghiệp có thể đầu tư và cố gắng để trả   lương   cao, tạo những thời cơ và điều kiện làm việc lý tưởng cho viên chức. Nhưng như vậy cũng mới giải quyết được một phần của vấn đề là giảm bớt những lực đẩy trong nội bộ khiến nhân viên đi khỏi.
  Còn lực hút từ thị trường bên ngoài thì vẫn luôn tồn tại và nằm ngoài khả năng kiểm soát của công ty. Sự dịch chuyển tự do của nguồn nhân lực trên thị trường là chẳng thể ngăn cản. Nếu chẳng thể đóng cửa về mặt nhân sự thì công ty cần mở cửa và có những chiến lược nhân sự theo định hướng thị trường.

Dựa trên một thực tiễn hơi khó nghe là gần như không thể có sự trung thành lâu dài của viên chức, chiến lược nhân sự theo định hướng thị trường sẽ từ bỏ mục tiêu cổ điển của   quản trị nhân sự   là giảm thiểu số lượng nhân viên nghỉ việc để đi theo mục tiêu mới là chi phối được việc ai sẽ nghỉ và bao giờ nghỉ.

Cách làm của các câu lạc bộ bóng đá quốc tế là thí dụ điển hình. Đối đầu với thực tại là các cầu thủ giỏi của mình luôn bị “dòm nom”, các đội bóng luôn tìm cách nắm vững tình hình ai sẽ rời bỏ và bao giờ đi, từ đó phân tích căn do và hậu quả của từng vụ rời đi, xem ai là người có thể thay thế, ai vẫn đang rất cần. Không cần và cũng không thể giữ hết các cầu thủ, nhưng đội bóng có thể chủ động tập kết tìm cách giữ chân một vài người quan trọng rồi có kế hoạch   huấn luyện   hay tìm người thay thế.

Một đào tạo viên giỏi có thể chủ động chuyển nhượng một cầu thủ vẫn đang ở đỉnh cao nhưng không còn tha thiết với đội nhà và có thể thúc đẩy xấu đến tinh thần của tập thể, thay vào đó là tuyển về nhiều cầu thủ trẻ hơn, ít đòi hỏi nhưng lại cống hiến nhiều hơn.

Một số giải pháp theo định hướng thị trường

Định hướng thị trường cũng bao hàm một số biện pháp hữu hiệu để   quản lý nguồn nhân công   thiết yếu:

- Hiệp đồng cam kết. Không chỉ ràng buộc về mặt pháp lý, giao kèo làm việc có thời hạn cũng giúp nhân viên thấy rõ việc phải làm và cái đích phải đạt trong khoảng thời kì quy định, từ đó kích thích sự cống hiến cao độ của viên chức để đạt mục tiêu giao kèo. Trong thị trường cần lao chuyên nghiệp thì nhân viên có thể cống hiến hết mình mà không cần có sự trung thành.

- Giao cho nhà thầu. Một khi nguồn nhân lực cấp cao trở thành quý hãn hữu trên thị trường, thì việc tìm và giữ nhân viên sẽ rất khó khăn và tốn kém. Nhiều đơn vị đã chọn cách sử dụng công ty bên ngoài để khỏi phải lo đến việc tìm và giữ nguồn nhân lực quý hãn hữu. Ví dụ, doanh nghiệp Tài chính J.P. Morgan đã khôn ngoan kết hợp với một số đơn vị tin học để lập ra sức ty Pinnacle Alliance chuyên thầu các nghiệp vụ vi tính trên toàn cầu cho mình.

- Tăng cường huấn luyện và chuẩn hóa công tác. Có thể chuẩn hóa công tác bằng cách chia thành từng phần việc nhỏ, có mô tả rõ ràng và đề nghị tất cả các giao du đều phải thực hiện bằng văn bản hay e-mail. Các chương trình vi tính, tỉ dụ về kế toán, quản lý khách hàng, nguyên liệu… cũng là những dụng cụ rất hữu hiệu để chuẩn hóa công tác. Một nhân viên giỏi rời bỏ, nhưng nếu có bảng biểu thị công tác rõ ràng, có văn bản lưu lại hay có các phần mềm tương trợ thì sẽ không khó để tìm người thay thế.

- Hiệp tác với đối thủ và đối tác. Cạnh tranh không phải lúc nào cũng mang nghĩa đối đầu. Sự hiệp tác, ngay cả với đối thủ, cũng có khi là biện pháp hữu hiệu để tìm và giữ nguồn nhân lực đang khan thảng hoặc. Thí dụ các công ty dệt may có thể cạnh tranh với nhau để giành giao kèo và quota. Nhưng các doanh nghiệp cũng có thể giúp nhau và giúp người lao động bằng cách doanh nghiệp ít đơn hàng cho đơn vị đang có nhiều hợp đồng mượn trợ thì nguồn nhân lực của mình.

Chẳng hạn, công ty Viễn thông AT&T ở Mỹ đã kết hợp với khoảng 30 tổ chức khác để lập ra “Liên minh hào kiệt” (Talent Alliance) như một ngân hàng về nguồn nhân công để chia sẻ giữa các thành viên. Sự hiệp tác cũng có thể là giữa những tổ chức không cạnh tranh nhau hoặc giữa đơn vị với các công ty, chính quyền.

Thí dụ, Giám đốc nhân sự của một doanh nghiệp may mặc lớn trong nước đã từng có “sáng kiến” đi tìm nguồn nhân lực ở… chính quyền. Ông ta đến ủy ban nhân dân của một huyện ở đồng bằng sông Cửu Long và yêu cầu sẽ hỗ trợ địa phương tạo việc làm cho 200 cần lao nữ, nhưng kèm điều kiện địa phương đảm bảo viên chức phải làm việc ít nhất ba tháng ở công ty. Lãnh đạo huyện nồng hậu đứng ra tuyển người giùm tổ chức. Một mô hình hợp tác rất ý nghĩa!

Quantri.Vn

Tăng cường năng lực lãnh đạo điều hành của CEO Việt Nam trong môi trường kinh doanh đầy biến động

“Con đường độc nhất để tăng cường năng lực lãnh đạo điều hành là CEO phải xác định luôn học hỏi mọi lúc mọi nơi những thứ cần thiết để luôn theo kịp sự đổi thay chóng vánh của môi trường kinh doanh”.

  Cho đến hôm nay có thể nói sau hơn 25 năm đổi mới, chưa bao giờ các tổ chức Việt Nam đứng trước các khó khăn và thách thức lớn như hiện giờ trong môi trường kinh doanh quốc tế, khu vực và trong nước đầy biến động và khủng hoảng trên diện rộng ảnh hưởng đến nhiều nhà nước, khu vực. Các CEO là những người đững mũi chịu sào sẽ phải chịu bổn phận lớn nhất điều hành con tàu đơn vị ra khơi, gánh nặng này đang dặt trên vai các CEO.

 1. Phác họa chân dung về CEO

CEO (Chief Executive Officer) là người chịu trách nhiệm và điều hành toàn bộ mọi hoạt động của công theo các quyết sách, chiến lược và chính sách của Hội Đồng Quản Trị. Có thể nói CEO là linh hồn, là trọng điểm của các công ty. Năng lực điều hành của CEO là hạt nhân lõi để tương tác hay kìm hãm sự phát triển của công ty. Vậy thì để thành công CEO cần phải có những năng lực điều hành như thế nào?
Qua rất nhiều nghiên cứu có thể rút ra năng lực lãnh đạo điều hành cần có của một CEO gồm những nền tảng sau:

-   Có tố chất, thái độ lãnh đọa điều hành: Tư tưởng hào phóng, cộng tác, tự tin, nhiệt liệt, cả quyết, thấu hiểu, vị tha, sẵn sang chấp nhận, dám giả mạo hiểm với rủi ro, công bằng, sang tạo, có đạo đức…

-   Có tri thức, hiểu biết về lãnh đạo: Có kiến thức, hiểu biết về quản lý  điều hành, về lĩnh vực hoạt động, hiểu mình, hiểu người, được đào tạo có trình độ kinh doanh…

  -   Có kỹ năng lãnh đạo: Có tầm nhìn chiến lược, có kỹ năng giao dịch, phân việc giao quyền, ủy quyền, gây liên quan và xây dựng hình ảnh, có kỹ năng ra quyết định...

 2. Bức tranh chân dung CEO Việt Nam bây chừ

 Những năm qua, cùng với sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển lớn mạnh của cộng đồng đơn vị Việt: Trong đó nổi lên với nhiều tiếng tăm lớn như: Viettel, VNPT,Vinaphone, Mobiphone, FPT, Café Trung Nguyên……có thể nói rằng sự phát triển lớn mạnh của các doanh nghiệp có sự đóng góp rất lớn, đặc biệt trong các CEO. Các CEO Việt Nam có những điểm mạnh nổi trội là: thông minh sáng tạo, nhanh nhạy, thích ứng nhanh với thời cuộc, chuyên cần, chịu thương chịu khó, dám nghĩ, dám làm, lạc quan và năng động…..
Ngoại giả các CEO của Việt Nam còn nhwunxg điểm yếu hạn chế cơ bản sau:

-   Thái độ, tố chất lãnh đạo điều hành : Có tố chất lãnh đạo điều hành song thiếu tính kết đoàn và kỷ luật cao.

-   Tri thức, trình độ lãnh đạo điều hành còn thấp và mang số đông

 Theo kết quả điều tra gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư kết hợp với Cơ quan hiệp tác Nhật Bản JICA thực hiện khảo sát hơn 63.760 công ty tại 30 đô thị phía bắc cho thấy:
Số chủ doanh nghiệp chỉ có 54,5% có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên.  Còn lại là 45,5% số chủ nghiệp có trình độ bậc trung học phổ quát và chưa qua đào tạo đại học, số chủ đơn vị có nghiệp có trình độ thạc sĩ, tấn sĩ càng quá thi thoảng với 3,7 % số chủ doanh nghiệp. Số trình độ cao đẳng trở lên, cũng chỉ khoảng 30% là được tập huấn về quản trị kinh doanh và có tri thức kinh tế và khoảng 70% số chủ công ty còn lại chưa được tập huấn.

-   Kỹ năng lãnh đạo điều hành: Kỹ năng lãnh đạo điều hành vừa thiếu lại vừa yếu

Với  nền móng học thức thấp, thiếu tập huấn để trở thành CEO một cách bàn bản và chuyên nghiệp nên sẽ dẫn đến việc các CEO Việt Nam hiện nay bị thiếu nhiều kỹ năng để có thể lãnh đạo điều hành tốt doanh nghiệp của mình.

3. Một số giải pháp tăng cường năng lực lãnh đạo điều hành của CEO trong môi trường kinh doanh đầy biến động như bây giờ

 -   Đối với chính phủ:

   + Thẳng tay và cương quyết loại bỏ , cách chức và cho nghỉ việc những CEO tại các Tập đoàn, công ty làm thấm tháp lỗ phá sản để làm gương và tạo nên ý thức doanh ngiệp dám làm, dám chịu nghĩa vụ của Việt nam
     + thực hiện triệt để chiến lược phát triển giáo dục đào tạo, thực thụ coi “Giáo dục là quốc sách hang đầu” để tăng cường chất lượng nguồn nhân lực góp phần gián tiếp tạo nên các CEO Việt Nam sau này.

  -   Đối với các hiệp hội ngành nghề: Cần nâng cao hoạt động của các hiệp hội theo hướng  thực chất, thiết thực và hiệu quả nhằm tạo nên khí thế, ý thức thương lái cạnh tranh lành mạnh, hiệp tác phát triển, san sẻ và đoàn kết giữa các CEO với nhau và đặc biệt khi đầu tư ra nước ngoài.

  -   Đối với đơn vị: Các chủ tổ chức, Hội đồng Quản trị trong các đơn vị cần nên trao quyền  và tách biệt giữa quyền sở hữu với quyền điều hành trong doanh nghiệp, hạn chế kiêm nhiệm cả chủ tich HĐQT kiêm tổng giám đốc, Giám đốc.

   -   Đối với  bản thân các CEO: Con đường duy nhất để nâng cao năng lực lãnh đạo điều hành là CEO phải xác định luôn học hỏi mọi lúc mọi nơi những thứ cần thiết để luôn theo kịp sự đổi thay nhanh chóng của môi trường.

4.   Kết luận

Trong bối cảnh môi trường kinh tế luôn biến động khó lường và đang đầy khó khăn thách thức như hiện nay là một giải pháp quan yếu để  phát triển vững bền các tổ chức lấy con người là trọng tâm, lấy CEO làm hạt nhân của quản lý điều hành.

Kỷ Yếu Ngày nhân sự Việt Nam - Vietnam HRDay
ThS. NCS Nguyễn Mạnh Hùng

Thấu hiểu tâm của Ban lãnh đạo ngân hàng - Hr Blog

Thấu hiểu tâm của Ban lãnh đạo nhà băng

TP - Đã 1 năm đã qua đi. Nhiều câu hỏi ngày ấy - bây chừ đã được trả lời, những băn khoăn theo thời gian cũng tan biến - chị Nguyễn Thúy Hạnh, Phó giám đốc khối khách hàng cá nhân PVcomBank san sẻ.



Dưới đây là tâm sự của chị: Trước khi việc hợp nhất nhà băng Phương Tây và Tài chính Dầu khí diễn ra, tôi đảm trách vị trí Phó tổng giám đốc nhà băng Phương Tây (WestBank), đảm nhận khu vực miền Bắc. Khi nhận được thông tin về việc sáp nhập, như tâm lý của đa số CBNV tại WTB, tôi rất băn khoăn về những thay đổi sẽ đến về công việc, thu nhập, chức danh, chế độ chính sách. Thực tiễn cuộc sống cho thấy, trong các sự kiện na ná, thường diễn ra việc thay thế các cán bộ, nói nôm na là “thay máu”, đặc biệt là đối với lớp cán bộ mấu chốt của WTB. Liệu lớp cán bộ này có được nhà băng mới tin tưởng, trọng dụng… Trong lúc bề bộn nhiều suy nghĩ như vậy, không tránh khỏi giây khắc tôi có ý định rời khỏi nhà băng.

Đã 1 năm đã qua đi. Nhiều câu hỏi ngày ấy - bây giờ đã được giải đáp, những băn khoăn theo thời kì cũng tan biến. Có thể nói, thi thoảng có một sự sáp nhập nào lại trơn tru, hiệu quả và tạo ra công mạnh thống nhất một cách nhanh chóng như vậy giữa hai thực thể có nhiều khác biệt. Trước nhất, chính sách, chế độ với CBNV được quan tâm chú ý và đặc biệt là không có hiện tượng phân biệt đối xử giữa nhân viên cũ và mới. Nhân sự được đánh giá và đề bạt trên cơ sở năng lực thực thụ. Việc kiểm tra được thực hiện khá công tâm, tạo tâm lý lặng tâm công tác cho CBNV.

Ngân hàng mới - PVcomBank thực sự chú trọng vào đào tạo, bồi dưỡng năng lực cán bộ, thường xuyên công ty các khóa tập huấn chất lượng cao; đảm bảo CBNV có thời cơ bình đẳng trong việc đào tạo, tăng cường năng lực nghiệp vụ. Quan trọng hơn, định hướng chiến lược phát triển phù hợp với năng lực, đặc thù và dự báo thị trường luôn được Hội đồng quản trị và Ban lãnh đạo ngân hàng đặt lên hàng đầu (qua việc thuê tư vấn chiến lược nước ngoài). Mặt mạnh, lợi thế chuyên biệt của hai công ty đã được chú ý sử dụng, áp dụng hiệu quả một cách ăn nhập, tạo nên thế mạnh chung, định hướng chung và văn hóa chung, đồng nhất.

Với cá nhân mình, những gì tôi nhận được đó là sự tin tưởng, quan tâm, ủng hộ từ Ban lãnh đạo nhà băng, sự kiểm tra chuẩn mực và bố trí công tác thích hợp với nguyện vọng để từ đó, tự thấy phát huy được năng lực, đóng góp phần bé nhỏ vào thành tích chung của nhà băng. Quan trọng nữa, là sự cảm nhận được làm việc trong một tập thể không tồn tại sự phân biệt đối xử, không quan niệm người mới- cũ, mà chỉ có đồng nghiệp tôn trọng lẫn nhau, cùng hướng về mai sau và triển vẳng tốt đẹp của nhà băng.

Tienphong.Vn

Vận dụng chuỗi cung ứng vào quản lý   nhân sự

Theo lời Peter Cappelli, giám đốc quản lý của Wharton thì nhược điểm trong việc quản lý các đề xuất về người tài “ngang bằng với nhược điểm trong việc quản lý chuỗi cung ứng của bạn”.

Còn hiện nay, theo thời gian, hầu hết các ông chủ đơn vị đều có được những kinh nghiệm vô giá về việc   tìm kiếm   và giữ chân người giỏi.

Ông cho biết những nhà quản lý chuỗi cung ứng “luôn hỏi những câu hỏi như ‘Chúng ta có những phòng ban ăn nhập trong kho không?, ‘Chúng ta có biết nơi nào để có được những phần đó khi chúng ta cần không?, hay ‘Có cần đầu tư nhiều tiền để thực hành việc kiểm kê hay không?’.

Những câu hỏi đó thường chỉ tương tác tới những doanh nghiệp đang cố gắng để quản lý được các đề nghị về tài năng của họ.”. Vậy nên nói một cách khác các nguyên lý của quản lý chuỗi cung ứng, với tầm quan yếu của nó trong việc sản xuất theo công đoạn, đều có thể được ứng dụng cho việc quản lý nhân kiệt.

Và theo Cappelli thì: “Đây là một mô hình dị biệt hoàn toàn trong việc nghĩ suy về tuấn kiệt”. Theo triết lí của ông đưa ra thì ông đã xác định rõ được chứng bệnh chủ yếu về lĩnh vực   quản trị nhân sự   , cái đó nó là “cảm giác quá nhạy cảm, mềm mại cùng với chút khả năng áp dụng vào các vấn đề kinh doanh. Thực tiễn đặc thù công việc quản trị nhân sự là đáp ứng các nhu cầu của các cá nhân, nắm bắt được diễn biến tâm lý mà họ thấy thích hợp cũng như nên thực hành điều gì để giúp cho họ phát triển và tăng cường.

Nhưng nếu bạn là một người thuê lao động lo lắng về những vấn đề nảy sinh kiểu như các rắc rối tài chính của đơn vị thì bạn phải nhờ vào quản trị nhân sự để đánh giá được những nhân viên mà bạn đã mất tiền và phí   tuyển dụng   , và điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không có được đúng những người phù hợp vào làm những công việc cần thiết.”

Cappelli cũng chú ý rằng những người hội tụ vào quản lý chuỗi cung ứng luôn phải giải quyết những kiểu câu hỏi như vậy suốt ngày. Ông cho rằng: “Việc quản lý các chuỗi cung ứng thực ra là quản lý tình trạng không rõ ràng và hay thay đổi. Sự không rõ ràng giống nhau này tồn tại trong các đơn vị cùng với việc quan hoài tới việc phát triển tài năng. Các công ty thi thoảng ít biết được cái họ sẽ xây dựng trong năm năm tới hay họ cần những kỹ năng nào để làm cho điều đó xảy ra; họ cũng không biết liệu những người mà họ có trong các nguồn của mình sẽ còn phát huy được không.”

Và điều quan trọng của vấn đề đó là nhiều doanh nghiệp đã bị dồn vào theo một mô hình cũ rích dựa trên giả thiết rằng chúng có thể đáp ứng được xác đáng các nhu cầu về thiên tài của mình duyệt y các mô hình dự đoán và lập mưu hoạch tĩnh, mặc dù thị trường toàn cầu là một môi trường ngày một ác liệt và chẳng thể dự đoán được. Cappelli giải thích rằng: “Ý tưởng mà chúng ta có thế có được chắc chắn duyệt y việc lập mưu hoạch thực ra không còn đúng nữa. Thay vào đó, chúng ta phải giải quyết tình trạng không rõ ràng này bằng cách trở nên thích nghi và phản ứng nhanh hơn.”

Việc ngồi im trên kệ

- Cụm từ “quản lý nhân tài” đơn giản chỉ có tức thị “cố gắng để dự đoán được cái chúng ta sẽ phải cần và sau đó là lập mưu hoạch để đáp ứng được nhu cầu đó”, Cappelli giải thích và theo ông thì định nghĩa về quản lý chuỗi cung ứng về căn bản cũng giống như vậy: “Chúng ta nghĩ rằng nhu cầu về các sản phẩm của chúng ta trong năm tới phải đạt được là ‘X’. Vậy chúng ta công ty nội tại như thế nào để đáp ứng được nhu cầu đó? “

- Vấn đề căn bản về chuỗi cung ứng đó chính là việc nảy sinh về kiểm kê, điều mà trong điều kiện quản lý hào kiệt thường phát sinh khi những người thuê lao động bàn về việc có được một “sự hiểu biết thấu đáo” về hào kiệt. Chính vậy mà Cappelli nói rằng: “Bạn nghe thấy cụm từ này rất nhiều ‘chúng ta có một sự hiểu biết thấu đáo’, hoặc ‘chúng ta có cả một nguồn hào kiệt lớn’ – và điều này được nói với lòng tự hào. Nhưng nếu bạn nghĩ về nó trong điều kiện chuỗi cung ứng thì một sự hiểu biết thấu đáo là ngang bằng với việc kiểm kê rất nhiều, mà điều đó dường như thật khủng khiếp khi chúng ta nghĩ tới các sản phẩm.

- Thực tiễn, nó càng trở nên tồi tệ hơn khi chúng ta bàn về hào kiệt. Đó là bởi vì một sự kiểm kê về người tài là mất nhiều chi phí hơn là một sự kiểm kê về các mặt hàng. Tuấn kiệt không chỉ ngồi lặng trên kệ như các mặt hàng. Bạn lại phải luôn chuyên chú vào nhân kiệt và cách tốt nhất để anh tài đi khỏi bạn đó là hãy để nó ngồi im một chỗ và chờ đợi cơ hội. Thế nên, bất kỳ ai có tham vẳng cũng sẽ đi khỏi, và rồi, sau chính bạn lại bị mất đi một khoản đầu tư lớn lúc trước mà bạn đã tụ hội vào cho người đó.”

- Việc tránh dồn kiểm kê lại có ảnh hưởng trực tiếp tới các những nỗ lực của các đơn vị nhằm quản lý được tình trạng không rõ ràng xung loanh quanh các yêu cầu về tuấn kiệt của họ. Cappelli cho rằng: “giả thử một đơn vị dự đoán rằng nó sẽ cần 100 kỹ sư mới trong năm đó. Nhưng chưa một ai từng đặt câu hỏi: ‘Làm thế nào để tính ra được sự ước đoán đó?’ Và thế là nó cứ xoay vòng, sự ước đoán đó hầu hết là luôn sai bởi vì các nhu cầu hoạt động kinh doanh rất khó để dự đoán được. Vì vậy mà nó tiếp tục được đặt ra câu hỏi tiếp theo: ‘Điều gì xảy ra nếu chúng ta mắc sai trái?’

- Bạn có thể mắc sai lầm theo một trong hai hướng: hướng thứ nhất là bạn có thể có được nhiều kỹ sư cấp thiết hơn bạn nghĩ và như vậy bạn sẽ phải hoặc tiếp nhận họ hoặc thải hồi họ; còn hướng thứ hai đó là bạn có thể có được ít kỹ sư cần thiết hơn bạn nghĩ và như vậy thì bạn lại phải gom nhóp để tìm thêm cho đủ người. Và câu hỏi tiếp theo: ‘Trong từng trường hợp chúng ta đầu tư cho cái gì vậy? Và liệu chi phí đó có quá nhiều hoặc quá ít không?’ Và thường thì hầu hết trường hợp này là bị mắc sai lầm nhiều hơn so với cái khác.”

- Nếu các đơn vị khởi đầu suy nghĩ về điều gì làm lợi thế trở nên sai lầm cũng như cái gì được kết hợp với các tổn phí, “thì sau đó họ sẽ biết cách nào để đánh cược và họ sẽ giảm đáng kể việc để mất quá nhiều tiền như kiểu trẻ thơ của mình”, Cappelli cho biết.

- Từ đó chúng ta thấy thách thức chính là hãy làm giảm lợi thế của việc mắc sai trái. Điều đó cho thấy được kỹ thuật khác từ việc vận trù học đó chính là phương pháp danh mục mà mục đích của nó là để giảm thiểu tính biến thiên xảy ra khi những thị trường khác nhau được dẫn dắt theo những hướng khác nhau. Trong thế giới tài chính, các nhà đầu tư tạo nên một danh mục các khoản đầu tư khác nhau mà một vài khoản nhịn nhường như trở nên tốt hơn trong khi những cái khác lại xấu đi nhằm giảm bớt sự lan truyền rủi ro toàn diện của chúng.

- Được ứng dụng vào quản lý thiên tài, khái niệm đó có nghĩa cân bằng hoàn toàn các loại rủi ro có thể xảy ra, tỉ dụ như khi những các phòng ban khác nhau trong một tổ chức lớn có tính phân tán cao cùng cố gắng dự đoán con số những người bán hàng (hoặc các nhà quản lý tổng hợp, các kỹ sư, v.V...) Thì mỗi phòng ban đều nghĩ nó sẽ phải cần đến.

- Và Cappelli giải thích rằng: “Một số phòng ban sẽ tính cần tới quá nhiều người bán hàng, và một số lại quá ít, nhưng nếu bạn tham dự vào những bộ phận khác nhau đó theo khía cạnh thuê người thì nhường như những sự biến đổi đó sẽ bị giảm gần hết hơn là được nhân lên. Vấn đề ở đây chính là các công ty đó bị phân tán nhiều tới mức thậm chí họ đã phải ngừng suy nghĩ về việc làm thế nào để sắp xếp được các vấn đề về hào kiệt theo các bộ phận.”

- Và như ông đã viết trong quyển sách của mình thì: “Theo tiếng nói của vận trù học và quản lý chuỗi cung ứng, các vấn đề về sự cung cấp quá thiếu và sự cung cấp quá thừa được biết một cách chung chung là ‘những tổn phí không ăn nhập’.” Biện pháp danh mục chỉ rõ được vấn đề không ăn nhập bằng việc khuyến khích các đơn vị kết hợp những nỗ lực phát triển thiên tài khác nhau thành một chương trình phổ thông.

- Và khi một số bộ phận phóng đại nhu cầu hay những phòng ban khác không đưa ra được nhu cầu thì “doanh nghiệp lúc đó có thể bù lấp cho sự không ăn nhập bằng cách luân chuyển những người ứng tuyển.”

- Việc giảm bớt các nút thắt cổ chai là một định nghĩa chuỗi cung ứng khác liên quan tới tài năng theo nhu cầu. Chả hạn như CIA từng gặp vấn đề này khi nó phải đối mặt với một bản danh sách chờ đợi hai năm để có được người phê duyệt những kỳ sát hạch an ninh.

- Và theo Cappelli thì: “Những người mới được   tuyển dụng   đều bị xếp vào hàng đợi mà không có việc gì để làm, đây hoàn toàn là cách mà hàng hóa có thể được xếp vào hàng đợi trong một dây chuyền lắp ráp kỹ thuật. Mà quan yếu hãy nhớ rằng dây chuyền lắp ráp kỹ thuật có thể chỉ chuyển động nhanh bằng bộ phận chậm nhất.”

- Trong trường hợp của CIA, bởi nó đã không đủ khả năng làm tăng lên dòng người duyệt an ninh, và như vậy câu hỏi sẽ là: vì sao nó lại phải thuê quá nhiều người như vậy, dẫu biết rằng họ chẳng thể di chuyển ngay hết được qua nút thắt cổ chai? Và Cappelli cho rằng: “doanh nghiệp không nên thực hiện việc thuê nhiều người cùng một lúc. Bạn nhận thấy điều này ở nhiều đơn vị, kể cả những đơn vị chỉ tuyển người có một năm một lần, giống như những người vừa tốt nghiệp đại học. Giả như họ tuyển dụng 50 người tốt nghiệp vào tháng sáu theo các ngạch   tập huấn   .

- Vào cuối năm, họ có được 50 người đang trông mong để chuyển từ chương trình tập huấn sang những vị trí bền vững hơn. Vậy vì sao người thuê lao động không đảo lại quá trình này và thuê người thành hai lần một năm thay cho có một lần thôi? Bởi không phải tất cả những người vừa tốt nghiệp đều thích bắt đầu đi làm vào tháng sáu, một số người thích đi du lịch còn một số khác thì thích bắt đầu đi làm muộn hơn.” Ưu điểm của việc đảo chiều việc tuyển dụng đó là doanh nghiệp sau chỉ cần tuyển thêm một nửa số các vị trí được tập huấn và quan yếu hơn là có thể điều chỉnh được số lượng tuyển dụng vào thời khắc sát với theo những đổi thay về nhu cầu.

- Những thực thế vận trù học khác mà Cappelli nhắc tới có ảnh hưởng đến việc phát triển nhân kiệt bao gồm việc rút ngắn chu trình dự đoán, đơn vị lại việc phân bổ các chương trình phát triển nhằm nâng cao khả năng phản ứng và cả việc giải quyết “các vấn đề về hàng đợi”.

- Các vấn đề về hàng đợi thường xảy ra trong những trường hợp mà những người cần lao đang chờ để nhận việc luân chuyển nhưng không thể có được bởi những người đương nhiệm không thấy cần phải bổ khuyết vào, và những lý do có thể là do sự sụt giảm trong công tác kinh doanh, thay đổi về thời kì bổ nhiệm hoặc một sự trù hoạch lại sinh sản. “Sự na ná trong việc sản xuất là một ‘dây chuyền (lắp ráp kỹ thuật) không cân bằng’, mà trong đó việc kiểm kê được gom dần lại sau tình trạng chuyển động chậm hơn, hoặc trong trường hợp này, việc phân công công việc mất nhiều thời kì hơn mới hoàn tất được.”

Vỡ nợ thay vì bùng nổ

- Hiện tại nhiều cái gọi là những ý tưởng mới trong quản lý anh tài như phản hồi 360 độ, các trọng tâm kiểm tra, sự luân chuyển công việc và đặc biệt là đồ mưu hoạch thành công dài hạn đều trở thành phổ quát trong thời kỳ hoàng kim của những tập đoàn đồ sộ cùng với sự phát triển vững bền ngay sau thế cuộc chiến thứ 2, và theo giám đốc trọng tâm về Quản trị Nhân sự của trường Wharton, Cappelli nhận xét thì: “Môi trường hoạt động kinh doanh hiện nay đang phải chịu đựng chút xíu hao hao như đối với các trạm gác trong thời kỳ Thế chiến thứ 2, điều đó giải thích được tại sao cách thức dựa vào đồ mưu hoạch không còn tạo được ý nghĩ nữa.”

- Những năm 1970 đã là một thời khắc như vậy, khi đó các doanh nghiệp đã cẩn thận phác thảo ra những kế hoạch cho việc phát triển nhân kiệt mà chung cuộc cũng bị sai trái hoàn toàn. Cappelli nói: “Mọi người ai cũng chờ mong nền kinh tế bùng nổ mà thực tiễn thì nó lại nằm yên ổn. Những người thuê lao động đã đầu tư rất nhiều vào tài năng nhưng họ đã không thể sử dụng được, điều đó dẫn tới một sư buông thả chung đối với việc quản lý nhân kiệt nội bộ.” Tình trạng suy thoái kinh tế sớm cùng với làn sóng đổi thay kỹ thuật của những năm 1980 đã chuyển đổi điều này. “Các doanh nghiệp thải hồi một số lượng lớn những người lao động, điều đó có nghĩa rằng không còn ký ức về cơ quan trong những người lao động. Đó là khi mọi người bắt đầu phát minh lại những thực tại đã trở thành phổ thông trong những năm 1950.”

- Còn trong những năm 1990, Cappelli cho biết, các công ty lại quay sang thuê làm bên ngoài theo, và thấy hứng thú một phần bởi số lượng lớn những người lao động bị sa thải là tàn tích từ những năm 1980, và một phần là bởi khả năng thuê được những người công nhân “vừa đúng lúc”. Nhưng những người thuê lao động cũng bắt đầu theo những người vừa rời khỏi các đối thủ cạnh trạnh của mình, và thế là một trò chơi đã tạo ra những vấn đề về giữ chân nhân viên và thường được kết thúc bằng một sự lôi kéo tốn kém một khi ngày một có nhiều công ty cùng bắt đầu tham dự chơi. Thêm vào đó, các tổ chức cũng nhận thấy rằng việc thuê làm bên ngoài không làm được gì để cải thiện được ý thức cho những người ở trong doanh nghiệp, những người nhận thấy những người mới đang thu được lợi qua mình.

- Các công ty giờ đều đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan: nói một cách khác, rất khó để có được lợi nhuận từ việc đầu tư vào phát triển nhân tài khi những ưu tiên bất chợt thay đổi và những người lao động thay đổi công tác vài năm một lần thay cho một hoặc hai lần trong cả một sự nghiệp. Nhưng việc làm cho không có sự phát triển nội tại và chỉ tin vào việc thuê làm bên ngoài cũng khó giải quyết khi mà nó để cho người thuê cần lao dễ bị tiến công bởi những ý thích chợt phát sinh của thị trường lao động.

- Và theo Cappelli thì: “Cái chúng ta cần là một cách giải quyết tình trạng không rõ ràng về các nhu cầu hoạt động kinh doanh cũng như tình trạng không rõ ràng về những nguồn hào kiệt nội tại.”, Và ông cũng chú ý rằng sự chọn lọc không chỉ giữa việc phát triển anh tài theo cách nội tại hoặc việc thuê làm từ bên ngoài. Nhưng sự tuyển lựa tốt hơn đó là để làm được cả hai: hãy sử dụng các mô hình ăn nhập hơn về phát triển nội tại mà bao gồm cả việc có được những người lao động nhằm giảm bớt chi phí, và rồi sau đó sử dụng những người thuê làm bên ngoài để lấp đầy vào những chỗ thâm hụt khi các dự đoán chắc chắn chứng minh sai.

- Những công ty đang dịch chuyển theo định hướng mới này kể cả những đơn vị mới bắt đầu thì đều phải có một danh sách công việc rõ ràng như đối với những thực tại về phát triển thiên tài, còn những hãng dịch vụ chuyên nghiệp, nơi luôn có được sự pha trộn anh tài thích hợp là đặc biệt quan yếu. Cappelli nói: “Các hãng tham mưu, các hãng kiểm toán, các hãng luật và tất cả đều đã bắt đầu cố gắng để tính được phí tổn của việc quay lại quản lý hào kiệt nghèo nàn vào năm 1990 khi thị trường lao động cũng đã trở nên bít tất tay do nhu cầu liên tiếp tuyển thêm người mới, vậy nên họ biết rằng khả năng cạnh tranh của họ chỉ có thể được dàn xếp một cách khốc liệt bằng việc xoay vòng công tác cao.” Đặc biệt các hãng ở Ấn Độ, nơi có thể là những người lãnh đạo nghĩ suy về việc quản lý nhân tài theo các cách mới bởi nhu cầu nhân kiệt ở đất nước này quá ác liệt, ông cho biết thêm.

‘Ngày phép tự nguyện’ của Cisco

- Cappelli đã đưa ra các quá trình quản lý người tài tại một số công ty bao gồm như Unilever, IBM, General Electric, EDS, Dow, Capital One, Citibank, Corning, Johnson & Johnson và Bear Stearns, nhằm biểu lộ rõ hơn.

- Ông mô tả mô hình dự đoán tinh tướng ở Dow, cái đã biết phối hợp chặt chẽ việc dự đoán dựa trên thống kê truyền thống với các yếu tố chả hạn như xu thế hoạt động kinh doanh và chính trị tại mỗi quốc gia mà Dow đặt sự điều hành, những thay đổi trong luật cần lao và việc làm, cùng với những kế hoạch kinh doanh cho những công ty đang điều hành. Cappelli viết rằng: “Những hệ thống chuẩn làm cho nó có thể kết hợp được những đánh giá cá nhân thành một dự án khái quát cho doanh nghiệp.“

- Tại Capital One, nơi thách thức là phải giúp được doanh nghiệp lập kế hoạch cho nguồn cần lao của mình, đang đi từ 20.000 nhân viên năm 2001 xuống còn 14.000 viên chức năm 2005 và tới năm 2007 là 30.000 viên chức sau một loạt các đề xuất, tổ chức đã phải giao hội một đội gồm các chuyên gia về nghiên cứu tiếp thị và điều hành sản xuất nhưng tuyệt nhiên không có ai từ chức năng quản trị nhân sự truyền thống.

- Nhóm đã sử dụng các kỹ thuật phân tích dữ liệu, các mô hình sinh sản và thông tin từ hệ thống PeopleSoft của mình để tạo ra những mô hình lên kế hoạch nhân tài cho từng doanh nghiệp kinh doanh. “Không chỉ dự đoán được số người được yêu cầu trong từng vai trò, họ còn dựng được những mô hình cho biết các kết quả chả hạn như tỷ lệ suy yếu về lòng tin, tinh thần làm việc, tỷ lệ về sự khuyến khích hay tỷ lệ về những người thuê làm bên ngoài.” Thay đổi lớn ở cả hai đơn vị này chính là những mô hình đó đã bỏ qua được việc dự đoán truyền thống và hướng sự mô phỏng vào giải quyết tình trạng không rõ ràng trong hoạt động kinh doanh.

- Mà theo Cappelli thì: “Hơn vì việc tạo được một sự đánh giá tĩnh về việc bao lăm công nhân sẽ được cần trong hai năm tới, họ lại nói với những nhà quản lý sinh sản rằng: ‘Hãy nói cho chúng tôi về những giả định mà theo các ngài cần phải có cho công tác kinh doanh của mình, còn chúng tôi sẽ đưa cho các ngài một bản kiểm tra nhân tài. Nhưng tốt hơn thì hãy đưa cho chúng tôi cả một loạt những giả định khác nhau, còn chúng tôi sẽ đưa cho các ngài một loạt những bản đánh giá thiên tài mà trong đó tính chuẩn xác hầu như sẽ có vẻ hơi giả dối.’”

- Cappelli cũng kể lại chi tiết những nỗ lực mà một số tổ chức đã thực hành để đưa cho những người lao động sự kiểm soát nhiều hơn qua quá trình phát triển sự nghiệp và bởi thế mà họ nhường nhịn như trở thành gắn bó với công ty hơn. Lấy thí dụ như Duke Power cho phép những người cần lao, trong những điều kiện cụ thể, gửi và đổi công việc với những người lao động khác có cùng công tác và mức   lương   như của họ. Còn hãng Coca-cola lại doanh nghiệp những lễ hội công việc cho những nhân viên kiểm toán ít kinh nghiệm của mình; Gap thì điều hành một văn phòng săn đầu người nội bộ nơi những người lao động với ít ra hai năm kinh nghiệm có thể tìm kiếm những vị trí khác trong công ty.

- Chubb “đã mở rộng thị trường lao động nội bộ của mình bằng cách loại bỏ cả nhiệm kỳ công tác và duyệt giám sát ngay với những đề xuất đối với thay đổi công việc trong doanh nghiệp”. Học viện McKinsey còn gửi tất cả các dự án cần có sự hợp tác (với đối tác là người lao động bậc thấp) vào một hệ thống trên toàn thế giới kèm theo thông báo có ảnh hưởng tới ngành kinh doanh, khách hàng, đội ở nhà và kiểu công tác dự án. Sau đó nó khuyến khích những người cộng tác tham gia theo sự ưa thích của họ.

- Trong suốt thời kỳ khủng hoảng công nghệ thông báo năm 2001 và sau đó, Cisco đã đưa ra một ‘ngày phép tình nguyện’ với những người lao động của mình mà theo đó đơn vị đồng ý trả một phần ba mức lương của họ trong thời gian họ làm việc tại những công ty phi lợi nhuận. Còn Deloitte thì lại cố gắng giữ những người lao động chính thức của Deloitte & Touche gia nhập vào công ty trong vòng năm năm sau khi họ rời đi khỏi doanh nghiệp (thường vì những lý do gia đình), trong trường hợp họ chưa có một công việc mới.

- Chương trình Personal Pursuits của hãng bao hàm chứng nhận và lệ phí tổn các chương trình kỹ năng nhằm giúp họ ở lại kiên cố, cũng như đưa ra sự tầm nã cập vào các chương trình sự nghiệp công ty và cuộc sống công việc cùng những chương trình khác. Ý tưởng trong cả hai trường hợp này đều là để giữ những người cần lao “ở trên móc” cùng với tổ chức đến mức họ có thể mau chóng hòa nhập lại với công tác nếu tự dưng có nhu cầu.

- Cappelli cũng thừa nhận rằng tình trạng không rõ ràng về việc liệu những kỹ năng nào sẽ được cần trong mai sau và liệu những người cần lao sẽ ở lại hay không làm cho nó trở nên khó khăn đối với những người thuê lao động nhằm thu lại được những khoản đầu tư vào chính những người cần lao đó. Một trong những cách tốt nhất để giải quyết vấn đề này đó là phải có được những người cần lao cùng chia sẻ được các tổn phí phát triển.

- Cappelli lưu ý rằng: “Hơn vì cố gắng gợi ý ai đó sẵn sàng vì sự thăng cấp thì nhiều doanh nghiệp vừa chuyển hướng vào việc tự bổ nhiệm, điều đó khiến các cá người tình nguyện hoặc ứng cử theo những kinh nghiệm phát triển. Thường những người thuê lao động luôn đề nghị rằng các ứng cử viên phải giữ được các công việc thường xuyên của mình và duy trì việc thực hành tốt chúng. Vậy nên với những kinh nghiệm phát triển, điều thường nhật dựa trên công việc, thì đều hoàn toàn được tình nguyện đối với đơn vị.”

Bán những ý tưởng cũ như những khái niệm mới

- Tuy nhiên, đối với phần lớn bộ phận, các tổ chức vẫn chưa biết phải đi theo những định hướng mới khi mà nó đòi hỏi phải kế tục các giải pháp quản lý anh tài hiệu quả hơn. Đây là thực sự là điều vô cùng đặc biệt đối với những đơn vị lớn và có tiếng như General Electric, Procter & Gamble, IBM, PepsiCo cùng với các thành viên của ngành công nghiệp dầu mỏ. Phần nhiều được biết như là “các tổ chức học viện” khi mà tăm tiếng của chúng được nhắc tới như là những nơi mà những người lao động tới để học hỏi được các kỹ năng quản lý rồi sau đó được các hãng khác thuê lại.

- GE “vẫn đang làm điều mà nó đã từng làm vào những năm 1950”, Cappelli nói: “Nó đã đưa ra một mô hình và mô hình đó không hề được thẩm tra. Một số phần của mô hình này hoạt động rất tốt và tương đối phù hợp với cái mà tôi biểu lộ đặc biệt là khả năng để tạo được những cái ăn nhập giữa con người và thời cơ nhưng những thành phần khác thì lại không được hiệu quả, chả hạn như mục tiêu của việc có được những hiểu biết thấu đáo về anh tài. IBM không còn bảo đảm cho mọi người vòng đời lao động nữa và họ thực hiện một số công việc bằng cách thuê bên ngoài, nhưng họ vẫn quản lý những thời cơ thăng tiến của những nhà quản lý của mình từ các hội sở.”

- Do vậy mà nhiều người quản trị nhân sự đã bị sa thải trong suốt những năm 1980, mà những người làm quản trị nhân sự không biết rằng việc hoạch định các mô hình nhiều cái đang thực thi thực ra đã có cách đây hàng thập kỷ. Thế nên Cappelli đã phát biểu rằng: “Những người quản trị nhân sự tất cả đều đang uống cùng một loại Kool – Aid. Họ đang bán những cái thực tiễn đó như thể họ có được những ý tưởng mới. Trong khi đó, kế toán nội bộ lại quá kém đến nỗi họ thậm chí không biết được nổi phí cho những cố gắng quản lý hào kiệt thiếu hiệu quả của mình. Các đơn vị không hề nhận thấy rằng họ cần có một sự thay đổi.”

- Một phương pháp mới đối với quả trị người tài là cần thiết vì hai lý do quan trọng mà theo Cappelli đó là: Về mặt chính sách công khai, các tổ chức không được phát triển nhân tài theo kiểu các đề nghị ở Mỹ để tránh cạnh tranh. Còn về mặt người chủ, hầu hết các đơn vị đều đang không hoạch định anh tài, hoặc việc hoạch định của họ bị sai, thì ngay lúc này việc khả năng có thể thuê bên ngoài làm dựa trên cơ sở vừa đúng lúc của họ cũng đang bị bào mòn. Những người thuê cần lao chẳng thể dễ dàng nhận thấy những người lao động gian lậu, thành ra mà nó vẫn là một quá trình tốn kém và mất rất nhiều thời gian để có được cái nhìn công bằng.

- Cappelli cho biết, lúc đầu khi việc hoạch định các thực tại được bắt nhan đề xướng thì các thị trường đều đủ vững bền để tạo được khả năng hoạch định lâu dài. “Chẳng hạn như IBM đã từng có những kế hoạch hoạt động kinh doanh 15 năm được tính toán rất chính xác. Các tổ chức trong ngành kinh doanh khí giới phòng vệ đã có những kế hoạch 10 năm.

- Bạn cũng đã không phải đưa ra những điều chỉnh cuối năm về sau. Nhưng ngày nay, nhu cầu có thể thay đổi chỉ trong vòng một năm. Sự uy tín và trách nhiệm phải giải trình đều được đẩy sang cho các cá nhân chứ không phải là các hệ thống, và việc luôn đổi thay sự nghiệp giữa các tổ chức là khá cao. Thế nên những người thuê lao động phải thích ứng được với thực tế đó.”

Quantri.Vn

Tài sản của người Mỹ lớn chưa từng có - Hr views

Nguồn tham khảo: học nhân sự ở đâu

Tài sản của người Mỹ lớn chưa từng có

Nhờ giá chứng khoán và địa ốc tăng, giá trị tài sản ròng rã của người Mỹ đã đạt mức cao kỷ lục trong quý 4/2014...



Nhờ giá chứng khoán và địa ốc tăng, giá trị tài sản ròng rã của người Mỹ đã đạt mức cao kỷ lục trong quý 4/2014 - hãng tin AP dẫn báo cáo do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) ban bố bữa qua (13/3) cho biết.

Theo báo cáo trên, tổng giá trị tài sản ròng rã của các hộ gia đình tại Mỹ tăng 1,9% trong quý rốt cuộc của năm ngoái, đạt mức 83 nghìn tỷ USD. Trong đó, giá trị danh mục đầu tư chứng khoán tăng 742 tỷ USD và giá trị bất động sản tăng thêm 356 tỷ USD.

Hộ gia đình làng nhàng của Mỹ không được hưởng lợi nhiều từ sự gia tăng tài sản này, bởi hầu hết của cải vẫn tập kết cốt tử ở từng lớp những gia đình giàu nhất. Số 10% hộ gia đình giàu nhất của Mỹ hiện nắm khoảng 80% danh mục đầu tư cổ phiếu của các gia đình ở nước này.

Mặc dù vậy, mức tài sản tăng có thể giúp tương tác tiêu thụ và hỗ trợ tăng trưởng cho nền kinh tế Mỹ. Thị trường chứng khoán và địa ốc khởi sắc có thể giúp người dân Mỹ cảm thấy im tâm hơn về tài chính và sẵn sàng “mở ví” nhiều hơn. Tiêu dùng đóng góp khoảng 70% nền kinh tế Mỹ, nên sự tăng trưởng của lĩnh vực này có ý nghĩa rất lớn đối với tăng trưởng của nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Báo cáo của FED cũng cho thấy tình hình tài chính của các đơn vị Mỹ được cải thiện nhiều. Tính đến cuối năm 2014, các doanh nghiệp ở nước này có trong tay 2 nghìn tỷ USD tiền mặt, mức dự trữ tiền mặt cao chưa từng có, từ mức dưới 1,9 nghìn tỷ vào thời khắc quý 3.

Với lượng tiền mặt dồi dào, các đơn vị có thể tăng đầu tư, từ đó tương trợ tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, các tổ chức còn có thể tăng lương cho công nhân viên, giúp họ có thể tiêu dùng nhiều hơn. Lương thuởng tăng chậm vốn được xem là một trong những rào cản tăng trưởng của kinh tế Mỹ trong những năm gần đây.

Tranh thủ lãi suất thấp kỷ lục, các doanh nghiệp của Mỹ cũng đang vay nợ nhiều hơn - một tín hiệu cho thấy các công ty tin tưởng vào sự phục hồi của nền kinh tế. Nợ của các tổ chức Mỹ tăng 7,2% trong quý 4/2014, mức tăng mạnh nhất trong hơn 6 năm.

Trong cuộc suy thoái lịch sử chính thức kết thúc vào tháng 6/2009, giá trị tài sản ròng rã của người Mỹ sụt giảm mạnh do giá cổ phiếu và giá nhà ở nước này nhất loạt lao dốc. Tổng giá trị tài sản ròng rã của các hộ gia đình Mỹ đã giảm còn 55 nghìn tỷ USD trong quý 1/2009 từ mức đỉnh 67,9 nghìn tỷ USD trước khủng hoảng. Phải đến quý 3/2012, khối tài sản ròng rã của người Mỹ mới vượt qua được mức đỉnh này.

Báo cáo cho thấy tài sản của người Mỹ tăng cao kỷ lục được FED đưa ra trong bối cảnh sự phục hồi của nền kinh tế nước này ngày một rõ nét. Các chuyên gia cho rằng, sau nhiều năm, Mỹ cuối cùng đã lấy lại được vai trò đầu tàu tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ Trung Quốc.

Vneconomy.Vn

Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2015

Công cụ lãnh đạo ưng chuẩn xung đột - Hr Froum

Dụng cụ lãnh đạo ưng chuẩn xung đột

Thuật lãnh đạo là một trong những nguyên tố quan trọng nhất của người quản lý. Cuốn sách "Lãnh đạo chuẩn y xung đột" của Rob Goffi và Gareth Jones đã biểu lộ những phương tiện chính cho phép một cá nhân trở nên một lãnh đạo chân chính và biết chuyển hóa xung đột thành cơ hội. Bài viết này diễn đạt hai công cụ trước hết của việc lãnh đạo duyệt y các xung đột: tầm nhìn tổng quan và tư duy hệ thống.

Công cụ 1. Tầm nhìn tổng quan

Mâu thuẫn phát sinh - và ngay tức tốc làm bạn mệt mỏi. Bạn không thể kiểm soát nó, không có thể né tránh nó, nhưng vững chắc bạn đang phải đối mặt với nó. Cần phải làm gì bây giờ? Không gì cả. Hoàn toàn không gì cả. Cho đến khi bạn chưa thấy có bạo lực hoặc một mối bắt nạt dọa thực thụ, thì chưa cần phải sử dụng bất cứ một hành động nào. Ta chỉ việc giám sát nó. Giả dụ vẫn còn chưa có một hành động vũ lực nào đe dọa bạn hoặc ai đó, thì tốt nhất là quan sát mọi việc thật kỹ rồi mới nhảy vào trận.

Tầm nhìn bao quát yêu cầu bạn phải thu nhận tất cả các bên xung đột bằng trái tim và tâm hồn, song song không được quên sự phức tạp của tình hình. "Bao quát" là "điều kiện cần để hiểu một cách khái quát". Ở đây, chúng tôi sẽ sử dụng thuật ngữ "tầm nhìn tổng quan" với tức thị "điều gì đó cần thiết để chuyển đổi toàn bộ". Nhà lãnh đạo giải quyết xung đột, hiểu rằng mặc dù phải trả giá, cũng không có ý nhảy đầm xổ vào "chàng trai xấu xí" gặp trước hết trên đường. Các nhà lãnh đạo này không làm bít tất tay xung đột bằng bạo lực, không sử dụng nó chỉ độc nhất vô nhị cho mục đích riêng. Với vai trò của mình, người trung gian cần chắc chắn rằng, trước khi đưa ra biện pháp, họ đã làm mọi thứ có thể để thấy được một khung cảnh lớn hơn.

Hai bên xung đột có thể xây dựng một bức tường ngang qua vườn cây ăn quả và chia nó ra nhiều phần khác nhau. Ngoại giả, cây trái - cũng chỉ là một, rễ cây nằm cả phía bên này lẫn bên kia, con ong cùng thụ phấn như nhau cho các bông hoa của cả hai phía, còn lá cây cũng chỉ nhận được cùng một ánh nắng mặt trời. Không quan trọng là bức tường cao đến đâu và kiên cố thế nào, có bao nhiêu bộ đội đang canh giữ, có bao nhiêu dây thép gai quấn xung vòng vèo nó hoặc là có hào sâu chạy dọc theo bờ tường, - thì bức tường này cũng không phải là tận cùng của thế giới. Nó chỉ biểu thị sự hạn chế tầm suy nghĩ của chúng ta.

Tầm nhìn bao quát yêu cầu phải đưa ra nghi vấn cho bất kỳ đường ranh mãnh giới nào đang bao lòng vòng giữa "chúng ta" và "những người khác". Có rất nhiều kiểu tinh quái giới, nó có thể được tạo ra bởi các nguyên tố thiên nhiên (bờ sông, rừng rậm, màu da, v.V.) Hoặc bởi yếu tố con người (người theo đạo gia tô đối chọi với người theo phái đa thần hoặc người theo đạo hồi đối chọi với người vô thần). Tầm nhìn bao quát cho phép chúng ta không dồn bất cứ điều gì từ đường oắt giới vào chân tường, mặt khác, nó cho phép chúng ta biết được về những mối quan hệ tồn tại giữa chúng ta.

Phương tiện 2. Tư duy hệ thống

Khi trong đầu chúng ta chỉ vừa xuất hiện ý định để tìm hiểu toàn bộ bản tính của xung đột, chúng ta thường khởi đầu bằng việc tư duy một cách hệ thống: cố gắng để xác định số lượng tối đa các nguyên tố quan trọng của tình huống xung đột và sự hiểu biết về các mối quan hệ giữa chúng. Ở phần dưới đây, chúng ta có thể thấy nhiều nhà lãnh đạo đã đối phó với xung đột bằng cách đặt ra rất nhiều câu hỏi cho phép tư duy một cách hệ thống hơn.

"Tại sao tổ chức ta lại thường xuyên rắc rối bởi các cuộc xung đột? - Giám đốc tổ chức Hunter Tielin hỏi - Tôi có thể làm gì để các phòng ban riêng biệt làm việc được với nhau và đơn vị tăng được hiệu quả kinh doanh?"

"Hệ thống chính trị và xã hội đang được chế độ A-pác-thai ủng hộ tại Nam Phi là cái gì? - Nelson Mandela hỏi. Làm thế nào để tôi, người đại diện cho chủng tộc da đen, có thể thay đổi chế độ để phóng thích cho cả người da đen lẫn người da trắng?"

"Cái gì đang tồn tại trong hệ thống thành thị Boston cản trở một cách hệ thống việc xây dựng nhà ở?- Wiliam Edgerli hỏi - Làm thế nào để tôi, chủ tịch một ngân hàng lớn, có thể giúp đỡ để nhà ở được cung cấp dễ dàng hơn cho người có nhu cầu?".

"Cái gì cần phải được liên hiệp Quốc thực hiện tại Baghdad để người dân Iraq có thể khôi phục giang sơn từ hậu quả của cuộc chiến tranh đáng sợ này? - Nada Al-Nashif, một trong những người đứng đầu cơ quan liên hiệp Quốc trong giai đoạn tái thiết sau chiến tranh, hỏi. Tổ chức của chúng ta cần phải hành động như thế nào để không thiên tính bè phái nào hết và giao hội được sức mạnh của tất cả các bên để hồi phục Iraq".

Việc quản lý các xung đột loại này đòi hỏi phải nghiên cứu tất cả các khía cạnh. Sự thành công của các nhà lãnh đạo được đề cập ở trên và các đồng nghiệp của họ từ các lĩnh vực khác nhau phần lớn phụ thuộc vào khả năng tư duy hệ thống của họ.

Theo foman.Vn

Sưu tầm:  kỹ năng ứng tuyển

Thứ Tư, 8 tháng 4, 2015

Phương pháp Phản hồi 360 độ (360 degree feedback) - Human Resources Management

Phương pháp Phản hồi 360 độ (360 degree feedback)

Phản hồi 360 độ (360 Degree Feedback) là phương pháp kiểm tra nhân viên (thường ở cấp quản lý và lãnh đạo) bằng cách thu thập dữ liệu về họ trong những cảnh huống làm việc thực tại và về những phẩm chất hoạt động mà họ biểu thị ưng chuẩn quá trình tổng hợp thông tin từ những người tiếp xúc với cá nhân được kiểm tra (tổng giám đốc, quản lý, người đồng cấp, khách hàng hay đối tác…), tổng thể là bất cứ ai đáng tin cậy và biết rõ về công tác của cá nhân đó đều có thể tham dự vào quá trình đánh giá này.

Việc tụ hội thông tin từ những người có tương tác đến hoạt động chung của tổ chức làm cho “phương pháp 360 độ” trở thành một phương tiện đáng tin cậy. Với nhân cách một nhà quản lý trong tổ chức, bản thân người được kiểm tra cũng có thể được đề xuất tự cho điểm chính mình về lối hành xử và những phẩm chất nghề nghiệp. Những “bản tự kiểm” này về sau có thể được sử dụng vào mục đích điều chỉnh hành vi hay thiết lập mưu hoạch phát triển cho cá nhân đó.

Phương pháp đánh giá này có thể được sử dụng để giải quyết hàng loạt vấn đề, nhưng trước hết là những vấn đề tương tác đến con người, bởi nó cho phép lãnh đạo sắp xếp cơ cấu tổ chức sơ bộ, dự trù kế hoạch về nhu cầu   tập huấn   , đánh giá kết quả đào tạo và xây dựng chương trình phát triển   nhân sự   tại doanh nghiệp. Ngoại giả, ở đây có một lưu ý nhỏ: không phải tất cả những đề nghị của vị trí làm việc mới đều có thể áp dụng tại vị trí làm việc ngày nay, thành ra không thể dựa trên cách kiểm tra này để xác định kiên cố hành vi của một nhân viên cụ thể tại vị trí mới trong tương lai. Trong trường hợp đó, lãnh đạo nên kết hợp thêm một đôi trắc nghiệm về chuyên môn, đặt ra một số cảnh huống giả thiết…để đánh giá và đánh giá về phong cách làm việc và khả năng thực thi nhiệm vụ của anh ta.

Bảng câu hỏi bao gồm những gì?
Bảng câu hỏi sử dụng trong phương pháp phản hồi 360 độ không chỉ để dành cho các chuyên gia cao cấp đánh giá và cho điểm nhân viên dưới quyền, mà cốt tử là nó nhắm đến việc làm rõ mỗi mục nêu lên trong đó có ý nghĩa gì, nếu không, các chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau có thể sẽ diễn giải thang điểm đó theo những cách khác nhau.

Ví dụ, nếu trong bảng câu hỏi viết đại loại rằng: “Hãy đánh giá năng lực lãnh đạo của anh/chị A theo thang điểm từ 1 đến 5”, thì đối với một viên chức thường ngày, thang điểm này sẽ không dị biệt nhiều lắm so với cách chấm điểm trong trường học với điểm 10 là xuất dung nhan. Thế nhưng ý nghĩa của điểm số, theo quan điểm của mỗi người, lại có thể không đồng nhất với ý nghĩa mà họ đặt ra cho việc kiểm tra.

Nhiều đơn vị sử dụng thang điểm 5 để đánh giá những phẩm chất chuyên môn của viên chức như sau:

- 5 – trình độ chuyên môn đạt mức độ cao, biểu thị được trong những điều kiện cực kỳ phức tạp và khó khăn, phát triển và nâng cao tay nghề, song song trợ giúp và đào tạo những nhân viên khác.
- 4 – có kinh nghiệm làm việc, diễn đạt được khả năng trong những điều kiện phức tạp vừa phải.
- 3 – kinh nghiệm ở mức cơ sở, biểu thị được khả năng trong phần lớn các tình huống bình thường.
- 2 – chừng độ phát triển còn kém, đôi khi khả năng được diễn tả và nhân viên cũng nhận thức được tầm quan trọng của những năng lực đó và cố gắng phát triển nó.
- 1 – hoàn toàn không có khả năng lãnh đạo.

Bên cạnh đó, khi yêu cầu đánh giá một người nào đó trong tổ chức, ban lãnh đạo có thể tìm hiểu về việc anh ta gây thiện cảm với mọi người ra sao và anh ta thu xếp các mối quan hệ với đồng nghiệp thế nào. Nói cách khác, lãnh đạo doanh nghiệp sẽ có thời cơ coi xét tính bền vững của tập thể phê chuẩn việc kiểm tra một nhân viên đơn lẻ.

Những bảng câu hỏi sử dụng để đánh giá tính sáng tạo cũng không thể khái quát chung: “Hãy kiểm tra chừng độ sáng tạo của anh/chị A theo thang điểm:

5 – cao.
4 – khá.
3 – trung bình.
2 – dưới nhàng nhàng.
1 – kém.

Trước khi yêu cầu mọi người đánh giá khả năng sáng tạo của nhân viên, lãnh đạo doanh nghiệp cần làm rõ những đề nghị ẩn chứa trong định nghĩa này, cũng như sự diễn đạt nào của tính sáng tạo không được tính đến ở đây, tức thị việc kiểm tra chẳng thể là kiểm tra chung chung, mà là kiểm tra con người, sự việc trong bối cảnh của công ty. Tỉ dụ, nếu công ty khuyến khích nhân viên phát huy tính sáng tạo, thì phần câu hỏi dành cho mục này phải được viết như sau: “Hãy đánh dấu những mục trình bày chính xác nhất phong cách của anh/chị A tại nơi làm việc:

- Không bao giờ đưa ra quan điểm mới hay phản đối, phủ nhận đề nghị của người khác,
- Trong công tác luôn cố gắng thực hiện nhiệm vụ theo những cách làm đã được kiểm chứng, cẩn trọng đối với các ý tưởng mới, chỉ thực hiện cách thức mới dưới sức ép của cấp trên,
- Sẵn sàng hưởng ứng các đề nghị của lãnh đạo về việc tìm tòi phương pháp làm việc mới hay công nghệ mới,
- Chủ động đề nghị những sáng kiến mới,
- Luôn đầy ắp những ý tưởng sáng tạo, tranh thủ từng cơ hội để thực thi các biện pháp mới.

Hãy nêu lên một ví dụ cụ thể mà bạn cho rằng miêu tả đầy đủ nhất thái độ của anh/chị A đối với những ý tưởng và giải pháp mới”.

Nếu điều công ty bạn quan tâm không phải là tính sáng tạo của viên chức, mà là những kết quả hăng hái mà sự sáng tạo đem lại cho công ty, thì câu hỏi trong phần này phải được viết là: “Hãy đánh dấu những điểm bộc lộ rõ nhất thái độ của anh/chị A trong công việc:

- Không đưa ra sáng kiến gì hoặc những đề xuất đưa ra thường liên quan xấu đến công tác chung,
- Ý tưởng của anh/chị A đôi khi cho phép giảm bớt một số chi phí,
- Những đề nghị của anh/chị A luôn là sự tối ưu hóa quá trình sinh sản, công nghệ và kinh doanh,
- Cách giải quyết vấn đề của anh/chị A giúp nâng cao tính hiệu quả của mọi hoạt động trong doanh nghiệp,
- Sáng kiến của anh/chị A làm cho công việc kinh doanh phát triển thấy rõ.

Hãy nêu lên một ví dụ cụ thể mà bạn cho rằng mô tả đầy đủ nhất sự đóng góp của anh/chị A vào hoạt động chung của tổ chức”.

Dù trong trường hợp nào thì điều quan yếu là bảng câu hỏi sử dụng trong cách thức kiểm tra này vẫn phải được xây dựng trên cơ sở những hệ thống tiêu chuẩn tổng hợp nhất định của công ty, bởi vì như vậy thì những thông tin thu thập được mới có thể sử dụng để so sánh với các số liệu, dữ liệu sẵn có.

Một chú ý nữa là bảng câu hỏi không nên chỉ bao gồm toàn những điểm số, mà cần phải có các chỉ dẫn về cách chọn lọc cũng như yêu cầu đưa ra cứ liệu. Lý tưởng nhất là bảng câu hỏi có thể thu về những thông báo có giá trị mà sau đó hệ thống tự động đưa về được dạng số. Như vậy, kết quả là chúng ta có thể nhận được hai dạng thông báo – chất lượng và số lượng. Dạng thứ nhất – chất lượng – cho phép diễn đạt cách viên chức bộc lộ mình trong công tác, còn dạng thứ hai – số lượng – đem lại thời cơ so sánh nhân viên này với nhân viên khác.

Các dạng thường gặp của bảng câu hỏi

Mỗi hình thức đánh giá phụ thuộc trước nhất vào mục tiêu của ban lãnh đạo. Khi mục tiêu của “cách thức 360 độ” là giao hội các thông tin dạng chất lượng về một nhóm nhỏ viên chức (dưới 100 người), thì bảng câu hỏi có thể in trên giấy hoặc để dưới dạng điện tử. Các bảng câu hỏi được phân phát cho mọi người điền vào các ô cần thiết, sau đó thu trở lại và được người có thẩm quyền tổng kết. Trong thời kì đó, người được kiểm tra có thể chuyện trò với các chuyên viên về kết quả đánh giá rút cuộc.

Nếu sử dụng phương pháp này để đánh giá một số lượng lớn viên chức, thì quá trình tiến hành được tự động hóa hoàn toàn với sự giúp đỡ của những hệ thống riêng biệt và kết quả cũng thường ở dạng điện tử. Khi đó, nhân viên không có cơ hội biết trước các kết quả thu được. Dạng câu hỏi điện tử này thường được ứng dụng khi các công ty cần thu thập số liệu để so sánh các nhân viên với nhau theo một đôi tiêu chí nhất mực (thí dụ trong trường hợp cần lập các nhóm để tập huấn).

Thông báo phản hồi

Thời đoạn rút cục của hoạt động kiểm tra là đảm bảo thông tin phản hồi (dưới dạng chuyện trò trực tiếp, gặp gỡ riêng với các nhà quản lý hay gửi thư điện tử). Điều quan yếu ở đây là làm sao để người vừa bị “mổ xẻ” trong cuộc điều tra rộng rãi đó biết được các kết quả của nó. Tuy nhiên, anh ta cần phải hình dong rõ ràng về việc những kết quả của cuộc kiểm tra sẽ được sử dụng vào mục đích gì, cũng như sử dụng như thế nào.

Sau khi tổng kết cục kiểm tra, các kết quả của nó cần được so sánh với kết quả của các cuộc dò la trước đó, rút ra kết luận để trình lên lãnh đạo và bảo đảm để các kết quả này được sử dụng trong tương lai, tỉ dụ trong trường hợp công ty cơ cấu nhân sự của doanh nghiệp.

Những điều cần tránh khi ứng dụng phương pháp kiểm tra “Phản hồi 360 độ”

Cách thức kiểm tra viên chức “360 độ” này rất luôn thể lợi và dễ dàng thực hiện đối với bất cứ doanh nghiệp hay doanh nghiệp nào nhờ việc sử dụng các công nghệ tiền tiến. Đáng nuối tiếc rằng chính điều này lại đồng nghĩa với việc quá trình đánh giá dần dần trở nên động cơ để cải tiến công nghệ, chứ không phải để nâng cao những đòi hỏi về con người của doanh nghiệp và không phải những đề xuất của con người trong việc phát triển và tập huấn. Trước khi ứng dụng một hình thức kiểm tra nào đó của “phương pháp 360 độ”, bạn hãy bảo đảm rằng hình thức bạn chọn lọc hướng trực tiếp đến các mục tiêu phát triển, chứ không phải chỉ để nghiên cứu.

Rác thông tin: Máy tính cho phép bạn thu thập một lượng thông báo khổng lồ chỉ trong một thời kì ngắn, nhưng bạn lại chẳng thể đưa ra một kết luận nào trên cơ sở những thông tin đó. Vì vậy bạn hãy xác định đâu là những thông báo bạn cần thu thập trước khi bắt tay vào việc kiểm tra viên chức. Khi đó bạn có thể tập trung vào những mục đích của mình, chứ không phải vào lượng thông báo thu được.

Dấu vết trên giấy mực: Bạn cũng có thể tiến hành kiểm tra viên chức bằng các bảng câu hỏi được in trên giấy. Thoạt nhìn qua thì cách làm này có vẻ như khá tần tiện, thế nhưng nó lại có thể rất tốn kém, chưa kể đến việc các thông báo cá nhân về người được kiểm tra có thể được nhiều người biết. Do đó bạn cần tính toán kỹ các chi phí in ấn và lượng giấy cần thiết trước khi chọn cách làm này.

Những kẻ ba hoa: cách thức phản hồi 360 độ tạo ra một thời cơ tuyệt vời để mọi người nói ra hết tâm can, cảm nhận chủ quan của mình đối với người được đánh giá. Bạn nên đặc biệt để ý những người đưa ra câu trả lời dông dài với nhiều lý lẽ, nhận xét về cá nhân con người, trong khi lại bỏ qua những ý chính của câu hỏi. Đừng quên rằng bạn chỉ cần những thông tin ảnh hưởng đến đơn vị và doanh nghiệp bạn, cho nên bạn hãy phác thảo sơ bộ đâu là những điều bạn đang cần tìm.

Chính sách: Phản hồi 360 độ là dụng cụ khá hiệu quả đối với việc phát triển con người, bên cạnh đó thỉnh thoảng nó có thể gây ảnh hưởng ngược lại, thậm chí là những tác động tiêu cực mang tính chất phá hủy. Bạn hãy đảm bảo rằng tất cả những viên chức tham dự vào hoạt động kiểm tra này đều thông thạo các nguyên tắc tiến hành và ứng dụng của cách thức này, song song bạn nên lưu ý đến việc tiếp cận nguồn thông báo của viên chức các cấp và ai là người được phép tróc nã cập những thông tin nào.

Thông tin gián đoạn: thông báo và giao du có tầm quan yếu sống còn đối với thành công của chương trình kiểm tra này. Tất cả mọi thành viên tham dự đều phải được biết điều gì sẽ xảy ra sau khi có kết luận kiểm tra chung cục theo cách thức 360 độ. Nhưng mọi việc không chỉ dừng lại ở đây. Bất cứ thành viên nào cũng phải hiểu được vai trò của anh ta là gì và những mục đích của anh ta hòa hợp ra sao với những mục tiêu chung của cuộc kiểm tra.

Thông báo phản hồi không chuẩn xác: thông báo phản hồi không chỉ thuần tuý là ban bố bản tổng kết, mà mọi người phải được giải thích để thấu hiểu ý nghĩa của các thông báo đó, cũng như hiểu được ý nghĩa của những thay đổi cần tiến hành để nâng cao hiệu quả công tác.

Vấn đề quan yếu tiếp theo: thông tin phản hồi có thể chỉ là một quá trình ngắn gọn và nhẹ nhõm. Nhưng tiếc nuối thay điều này lại thường làm cho việc kiểm tra được coi như một nhiệm vụ mà bạn buộc phải hoàn thành. Để có thể đổi thay hay điều chỉnh một vài thái độ, hành vi của viên chức, bạn cần có thời gian coi xét kỹ lưỡng các thông báo nhận được trong thời gian tiến hành đánh giá, đồng thời cần ủng hộ những người trực tiếp thực hành việc này.

  Tài liệu   : thời điểm mẫn cảm nhất chính là lúc tuyển lựa câu hỏi để đưa vào bảng đánh giá. Có thiếu gì các bảng mẫu điều tra để bạn tham khảo, nhưng chỉ có một hoặc hai trong số đó thích hợp với công ty bạn. Bạn cũng có thể tự soạn thảo bảng câu hỏi cho riêng mình. Bạn thử nghĩ xem phải cần bao nhiêu nguồn thông báo và dữ liệu hỗ trợ để lập ra chỉnh sửa các câu hỏi. Bạn đừng quên rằng câu hỏi thấp kém sẽ chỉ đưa đến câu giải đáp tồi tệ và trở thành nguyên do của những hành vi tiêu cực trong tổ chức.

Chìa khóa thành công: tham dự vào quá trình kiểm tra theo phương pháp phản hồi 360 độ là một việc quan yếu và vô cùng nghiêm chỉnh. Mỗi thông báo thu về đều có thể làm thay đổi hành vi của người được kiểm tra. Ngoại giả, nếu quá trình thu thập thông báo phản hồi kéo dài quá lâu, thì mọi người có thể sẽ không còn hứng thú đối với việc kiểm tra này, trừ một người độc nhất là chính người được đánh giá. Do đó, bạn hãy cố gắng kiểm soát thời gian của toàn bộ quá trình này.

Đánh giá nhân viên: khích lệ hiệu quả của nhà quản lý

Là nhà quản trị không phải lúc nào chúng ta cũng có thể dùng tiền để động viên viên chức. Tôi đã gặp một số người anh, người bạn trong vị trí của một CEO đã nói rằng: "Tôi đã tăng   lương   , đã giảm giờ làm, cho đi du lịch.......Vậy mà anh tài vẫn cứ ra đi".

   Không phải lúc nào, trường hợp nào cũng có thể dùng tiền để khích lệ viên chức. Tiền không bao giờ đủ cả. Ai cũng có túi ba gang, và cái túi ấy luôn không có đáy.........

   Ngày trước khi tôi xây dựng văn hóa tổ chức, tôi đã chỉ cho các nà quản lý hiểu rằng, người Việt Nam, không thể tồn tại một nền văn hóa theo kiểu "Phân biệt cấp trên, cấp dưới" như kiểu Hàn Quốc, Đài Loan, cũng chẳng thể ồn tại loại văn hóa "Tiền trao cháo múc" như kiểu văn hóa phương Tây..........Văn hóa của người Việt Nam: sống trọng tình cảm, trung thành và chịu khó. Tôi mở ra cho tất cả nhân viên biết mục tiêu của công ty và tát cả chúng ta sẽ làm gì trong đó khi thành công, khi thất bại. Tôi trợ giúp các vị quản lý  các cấp khi gặp khó khăn trong việc sử lý các cảnh huống   nhân sự   tương tác. Việc tôi đã làm nhận được sự ủng hộ nồng hậu của Ban lãnh đạo. Tất cả các quản lý trong tổ chức tôi đều có thể "Cùng dọn nhà vệ sinh, cũng lau VP, nhà xưởng, cùng đón cỗ ván sản phẩm mỗi khi có nhu cầu thúc bách". Cái văn hóa không phân biệt trên dưới và cư xử giống như một địa gia đình đã làm cho viên chức khi đi làm thì rất hăng hái, vì họ chỉ dời gia đình riêng để đến với gia đình chung thôi. Mỗi năm khi họp tổng kết, Sếp tôi thông báo kết quả kinh doanh trong năm và chúng tôi vạch xẹp hoạch cho năm mới. Sếp có thể mang nước đến cho nhân viên nếu thấy họ đang ra mồ hôi, có thể mua những mẩu bánh và cùng chúng tôi ngồi trên nền đất để thưởng thức vài phút giải trí trong giờ làm việc ........

 Có nhiều cách động viên hiệu quả, mà theo tôi, cách hiệu quả nhất chính là tạo ra một môi trường, ở đó tất cả các viên chức đều hiểu rõ giá trị của mình và luôn được kiểm tra đúng. Ngoại giả để kiểm tra được hiệu quả nhân viên, chúng ta phải có mục đích cho từng vị trí cụ thể và phương án đánh giá việc thực hiện mục đích đó. Tất cả những gì mình cần là sự rõ ràng, sáng tỏ cùng với phương pháp kiểm tra có tính sáng tạo cao và khả năng cụ thể hóa các mục tiêu thành những con số biết nói. Đây không phải là công tác đơn giản. Nó đòi hỏi sự cộng tác thật tốt của người   làm nhân sự   và nhà quản lý các bộ phận cùng với cả những viên chức mà mình đánh giá . Đó là cuộc hội thoại đẹp, khiến nhân viên quản lý xích lại gần nhau trong mục đích chung, cùng nhau phát triển doanh nghiệp. Đó là khi nhân viên hiểu rằng, khi đơn vị phát triển, chính mình cũng được phát triển.
   Mỗi doanh nghiệp, mỗi văn hóa khác nhau, việc áp dụng cách cổ vũ nhân viên cũng khác nhau, cái chính là nhữnng nhà quản lý nguồn lực "   human resource   Manager" có đích thực quản lý được nó hay không? Hay chỉ là có tiếng "làm dâu trăm họ" cũng là một cách nói về công việc nhân sự, và "bà mẹ quần chúng" cũng là cách gọi đnags yê ucủa mọi người đối với người làm nhân sự. Bât cứ công tác nàoc ũng có cái hay, cái dở của nó. Vàt rong mọi lúc, người làm nhân sự phải nhạy bén để có thể xây dựng một văn hóa tổ chức thích hơp nhất cho sự phát triển của viên chức, của doanh nghiệp. Và các phương pháp động viên nhân viên là một trong những "thanh kiếm" đương đầu của nhà quản lý giỏi.....

Kỷ yếu Ngày nhân sự Việt Nam
Đinh Thị Phước Duệ (17/9/1976)
HRM - doanh nghiệp TNHH RKW Lotus

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

Mức lương năm 2014 tăng khoảng 10 % - HR Vietnameses

Mức lương năm 2014 tăng khoảng 10 %

Đây là kết quả khảo sát lương của 473 đơn vị với hơn 164.700 viên chức tại Việt Nam do Mercer - tổ chức tư vấn nhân sự hàng đầu trên thế giới và đại diện tại Việt Nam (đơn vị Talentnet) ban bố ngày 6/10 tại TPHCM.



Khảo sát lương năm 2014 do Mercer, công ty hàng đầu thế giới về tham vấn nhân sự và đại diện tại Việt Nam, Talentnet đã thu hút 473 tổ chức tham gia đến từ nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, chủ yếu là ngành công nghệ, hàng tiêu dùng, dược phẩm, hóa chất và sinh sản, thu thập dữ liệu lương thưởng từ hơn 164.794 nhân viên trên khắp Việt Nam.

Kết quả khảo sát này được xem là bảng báo cáo lương, thưởng lớn nhất và chi tiết nhất ở Việt Nam trong vòng 15 năm qua.

Bà Hoa Nguyễn, trưởng bộ phận Khảo sát lương và tham mưu nhân sự theo cách thức Mercer của Talentnet nhận định: “Với điều kiện kinh doanh không có nhiều đổi thay và lạm phát được dự báo thấp hơn, mức tăng lương năm 2014 (10.4%) là ngang bằng với năm ngoái và được dự báo sẽ duy trì đến năm sau.”

Do không chịu tương tác từ các biến động kinh tế nhiều như những ngành khác, Dược phẩm, Hàng tiêu dùng và Hoá chất là ba ngành có tỉ lệ tăng lương cao nhất với mức tăng xấp xỉ 11%.



Trái lại, ngành dịch vụ tài chính bao gồm bất động sản và ngân hàng có tỉ lệ tăng lương thấp nhất ở mức 8.4% và 8.9%, do nhu cầu thị trường có khuynh hướng giảm trước điều kiện kinh tế còn nhiều biến động.

Xét theo vị trí công tác, các công tác kỹ sư có mức lương cao nhất so với thị trường, cao hơn 3.5%, liền sau là tài chính, kế toán (cao hơn thị trường 1.2%) và luật (0.7%). Trong khi đó, công tác bán hàng qua điện thoại, và sinh sản có tỷ lệ lương thấp nhất so với thị trường (thấp hơn 16% và 15.8% so với thị trường).

Theo kết quả khảo sát, sự chênh lệch mức chi trả giữa đơn vị trong nước và nước ngoài vẫn ở mức cao là 30%. Ngoài ra, sự khác biệt đang dần được nới rộng từ cấp chuyên viên đến cấp quản lý và Ban Giám Đốc.

Các tổ chức trong nước thường chi trả mức thưởng cao hơn các đơn vị nước ngoài. Hiện tại, để thu hút nhân tài, công ty trong nước sẵn lòng chi trả vượt quá khoảng lương cho vài vị trí chủ chố hoặc cấp cao.

“Bên cạnh đó, sẽ mất một vài năm nữa để mức chi trả ở các công ty lớn trong nước theo kịp với các tổ chức nước ngoài. Hiện tại, để thu hút, khuyến khích và giữ chân các nhân viên thiên tài, đơn vị trong nước thường sử dụng các ưu đãi như cấp cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu…” – Bà Hoa cho biết.



Xét thêm về các khoản thưởng, ngành ngân hàng và dầu khí có mức thưởng cao nhất tương ứng 22,7% và 17,7%, trong đó, các tổ chức trong nước vẫn chi trả cao hơn công ty nước ngoài.

Ngành thương nghiệp và công nghệ là hai ngành có mức thưởng thấp nhất so với thị trường. Ban Giám Đốc và cấp quản lý có mức thưởng cao nhất thị trường, nhưng không dị biệt so với năm ngoái.

Theo khảo sát lương, thưởng và phúc lợi 2014, các gói phúc lợi cho nhân viên vẫn khá tương đồng như năm ngoái. Nếu bảo hiểm tai nạn và bảo hiểm y tế cá nhân (ngoại trú và nội trú) được dùng phổ biến ở các cấp, các phúc lợi khác như bảo hiểm nhân thọ và xe hơi được dùng để thu hút và giữ chân nhân tài ở cấp quản trị.

Nhìn chung, tỷ lệ nghỉ việc năm 2013 ở các ngành giảm từ 2-3% so với năm 2012. Tỷ lệ viên chức nghỉ việc năm 2013 đạt mức thấp nhất trong 5 năm qua với 12,2% ở các tổ chức nước ngoài.

Ngành Dược phẩm, Hàng tiêu dùng và Bảo hiểm chứng kiến tỷ lệ thôi việc cao nhất, xảy ra do sự khan hi hữu nhân công giỏi. Bên cạnh đó, tỷ lệ này ở các doanh nghiệp nước ngoài thấp hơn so với các doanh nghiệp trong nước (12,2% và 17,1%).



Trưởng phòng kinh doanh, chuyên viên bán hàng và trưởng phòng tiếp thị vẫn là nhóm 3 công tác hot, được các tổ chức săn đón tuyển dụng và giữ chân nhiều năm qua.

Trong nghững năm kinh tế khó khăn, vị trí quản lý bán hàng càng trở nên quan yếu đối với tổ chức hơn so với vị trí tiếp thị vì nguồn doanh thu trực tiếp mang về cho đơn vị.

Số lượng các đơn vị trong nước tham gia khảo sát năm nay tăng so với năm ngoái chứng tỏ rằng các tổ chức càng ngày càng coi xét hệ thống lương thưởng một cách khá nghiêm túc. Các công ty đều mong muốn cải thiện và kiểm soát quỹ lương thưởng hiệu quả hơn.

Để nắm rõ độ cạnh tranh của mức lương, thưởng và trợ cấp của tổ chức so với toàn thị trường, các doanh nghiệp sẵn sàng tham dự khảo sát và chi tiền cho báo cáo lương thưởng, từ đó giúp đưa ra các quyết định.

Tham dự khảo sát cũng giúp các tổ chức kiểm soát, phân bổ quỹ lương tốt hơn để khuyến kích được viên chức. Khảo sát lương cũng là một nguồn tham khảo uy tín khi các công ty muốn linh hoạt chính sách chi trả để thu hút và giữ chân hào kiệt.

Phan Minh

Tập huấn nội bộ, những khó khăn tồn tại

(HR) Trong khi các đơn vị trên thế giới coi tập huấn như một chiến lược đầu tư quan yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh thì có nhiều công ty Việt Nam coi huấn luyện như một khoản chi phí cắt giảm càng nhiều càng tốt.

1 - Trong đơn vị, công tác đào tạo có cần thiết hay không?

Sẽ có rất nhiều người giải đáp “có" cho câu hỏi này, nhưng hành động của phần đông trên thực tế lại đi theo chiều hướng trái lại.

Hầu hết các tổ chức Việt Nam chưa có chiến lược đào tạo gắn liền với tầm nhìn và mục đích cụ thể của đơn vị. Kế hoạch tập huấn hàng năm cũng chưa có, hoặc có thì cũng rất sơ lược hình thức. Bức tranh trong nhiều doanh nghiệp hiện giờ là: lãnh đạo không thực thụ quan hoài đến công tác huấn luyện, không có cán bộ đảm trách đào tạo, hoặc có thì cũng thiếu năng lực, kinh tổn phí đào tạo quá eo hẹp, không xác định được nhu cầu huấn luyện của nhân viên, không có các giải pháp khai triển kế hoạch tập huấn, không kiểm tra được hiệu quả của công việc tập huấn…

Nhiều giám đốc doanh nghiệp quan niệm tập huấn là bổn phận của xã hội. Họ chỉ   tuyển dụng   những cán bộ lành nghề, đã được tập huấn và biết làm việc. Nhưng thực tế đã chỉ ra rằng, chiến lược   tuyển dụng   thông minh cũng không thay thế được công tác đào tạo trong công ty. Các nhà phỏng vấn khôn ngoan này thường xuyên gặp phải các vấn đề như: giá của những ứng viên giỏi càng ngày càng leo thang và không phải khi nào trên thị trường lao động cũng có sẵn những ứng viên thích hợp với đề nghị của họ. Đặc biệt với những chuyên môn gắn liền với thực tế của tổ chức, huấn luyện phát triển   nhân sự   có sẵn bên trong doanh nghiệp thông thường là giải pháp tối ưu nhất.

Một thực tế mà chúng ta thừa nhận là chất lượng giáo dục huấn luyện của Việt Nam chưa cao. Hầu hết các ứng viên mới ra trường đều cần đào tạo lại trước khi được chính thức giao việc. Điều này đúng cả với những người tìm việc đã tốt nghiệp đại học và trên đại học. Nền giáo dục Việt Nam chịu nhiều tương tác phương pháp dạy học cơ bản của Châu Âu (tại Anh, người ta có thói quen đề cao những ngành học cơ bản, song song vô cùng coi thường ngành học mang tính thực hiện, ví dụ như ngành công trình, ngược lại ở Mỹ, phạm vi tập huấn Đại học rộng và mang tính hướng nghiệp hơn, thí dụ có cả ngành quản lý sân golf). Không một trường Đại học nào ở Việt Nam hướng tới thực tiễn của các ngành công nghiệp như ở Mỹ. Chính bởi thế, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các đơn vị làm việc trong các ngành công nghệ có tốc độ đổi thay nhanh, đều phải đào tạo bổ sung rất nhiều cho các nhân viên mới tuyển dụng, trước khi có thể chính thức giao việc cho họ.

Ai cũng biết, muốn có năng suất lao động cao thì phải bác ái viên giỏi. Một viên chức văn phòng có khả năng đánh máy 60 từ/phút chắc chắn sẽ có năng suất cần lao cao hơn nhân viên mổ cò trên bàn phím. Nhưng phần lớn trong chúng ta chỉ biết kêu ca về sự kém cỏi của viên chức mà không chịu nhận thức rằng, nếu được huấn luyện tốt, họ sẽ khá hơn rất nhiều. Như trong trường hợp trên, chỉ sau hai tuần tập huấn bài bản, một nhân viên văn phòng bất kỳ có thể đạt tới tốc độ 50 - 60 từ/phút.

2 - tại sao công tác đào tạo trong doanh nghiệp khó triển khai?

Một số giám đốc thực thụ nhận thức được tầm quan yếu của công việc huấn luyện trong doanh nghiệp, nhưng than phiền là rất khó khai triển tốt công tác này. Quả thực có rất nhiều khó khăn như:

Không có cán bộ cáng đáng huấn luyện đủ năng lực: Nhiều đơn vị không tiếc nuối công sức truy lùng, sẵn sàng trả   lương   cao, nhưng cũng không tìm được nhân sự như ý. Hầu hết những ứng cử viên vào vị trí này, hiện có trên thị trường, chỉ đủ khả năng quản lý công việc huấn luyện về mặt hành chính, trong khi chúng ta mong muốn là cán bộ đảm nhận đào tạo phải có khả năng triển khai chính sách huấn luyện của đơn vị, có khả năng xây dựng chiến lược tập huấn, lập và khai triển kế hoạch huấn luyện...

Khó bố trí được thời gian đào tạo: đa số các nhân viên trong các đơn vị thành công, đều có kế hoạch công việc bận rộn tối đa. Hầu hết họ không có thời gian tham dự các khóa tập huấn tụ họp, đặc biệt là các khóa hội tụ dài ngày.

Kinh tổn phí huấn luyện hạn hẹp

Viên chức sau khi được tập huấn bỏ việc, chuyển cơ quan khác...

Những khó khăn nêu trên vẫn chưa phải là chướng ngại lớn nhất. Các công ty đích thực đã triển khai công việc đào tạo đều thừa nhận hai khó khăn to lớn sau đây:

Một là, làm thế nào để xác định đúng nhu cầu tập huấn của tổ chức. Thiếu, thừa hay sai đều mang lại thiệt hại cho đơn vị. Mỗi tổ chức phải chỉ ra: ai, khi nào, cần đào tạo cái gì? Nhu cầu huấn luyện phải gắn liền với thực tiễn của tổ chức. Nó phải phục vụ cho chiến lược kinh doanh, góp phần đạt được các mục đích của từng thời đoạn cũng như tầm nhìn của công ty.

Hai là, làm thế nào có thể tổ chức đáp ứng các nhu cầu trên một cách hiệu quả. Về nguyên tắc, trong nền kinh tế thị trường, chỉ cần có nhu cầu thì sẽ được đáp ứng. Ngoại giả, trong thực tế, việc công ty đáp ứng các nhu cầu đào tạo cho một tổ chức không dễ dàng. Bị giới hạn về tài chính, bị eo hẹp về thời kì, bị buộc ràng bởi thực tại, nhiều doanh nghiệp không tìm ra phương án đáp ứng các nhu cầu đào tạo. Các chương trình có sẵn của các trung tâm huấn luyện thì không phù hợp. Thiết kế các chương trình dành riêng cho mỗi công ty thì quá tốn kém. Khi nhu cầu huấn luyện không đáp ứng một cách tốt nhất, thì hiệu quả của công tác tập huấn đương nhiên sẽ không cao.

3. Giải pháp?

Nhiều doanh nghiệp chọn tập huấn nội bộ như là một giải pháp hữu hiệu. Một mặt đào tạo nội bộ giải quyết được vấn đề kinh chi phí, mặt khác nguyên tố đào tạo gắn liền được với thực tiễn doanh nghiệp được giải quyết tốt hơn rất nhiều. Tuy nhiên đào tạo nội bộ cũng vấp phải những rào cản riêng đó là: những giảng viên kiêm chức hay cán bộ quản lý cấp trung có thể rất giỏi về chuyên môn nhưng không được tập huấn bài bản về phương pháp truyền đạt, trong khi để đạt được hiệu quả cao, phương pháp giảng dạy được coi là yếu tố quan yếu hàng đầu.

Làm thế nào để tháo gỡ được khó khăn này?

Hiện giờ trên thị trường có rất nhiều công ty huấn luyện có chương trình tập huấn cho các giảng viên kiêm chức về phương pháp giảng dạy . Với một phí đầu tư vừa phải, thời gian linh hoạt, có thể đề xuất thiết kế chương trình thích hợp với nhu cầu và đặc biệt là với công nghệ giảng dạy hiện đại, các giảng viên kiêm chức hoàn toàn có thể trở nên giảng viên chuyên nghiệp trong lĩnh vực của mình (Thậm chí có thể được TOT đào tạo để trở nên giảng sư trong các lĩnh vực như kỹ năng mềm hay kỹ năng quản lý lãnh đạo, một lĩnh vực huấn luyện mà bây chừ các công ty rất đang quan tâm)

Quantri.Vn

Http://www.clbnhansu.net/2015/04/so-sanh-van-khich-le-voi-vien-chuc-cong.html - Human Resources

Mức lương năm 2014 tăng khoảng 10 %

Đây là kết quả khảo sát lương của 473 đơn vị với hơn 164.700 viên chức tại Việt Nam do Mercer - công ty tư vấn nhân sự hàng đầu trên thế giới và đại diện tại Việt Nam (doanh nghiệp Talentnet) công bố ngày 6/10 tại TPHCM.



Khảo sát lương năm 2014 do Mercer, doanh nghiệp hàng đầu thế giới về tham mưu nhân sự và đại diện tại Việt Nam, Talentnet đã thu hút 473 công ty tham dự đến từ nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, cốt yếu là ngành công nghệ, hàng tiêu dùng, dược phẩm, hóa chất và sinh sản, thu thập dữ liệu lương thưởng từ hơn 164.794 viên chức trên khắp Việt Nam.

Kết quả khảo sát này được xem là bảng báo cáo lương, thưởng lớn nhất và chi tiết nhất ở Việt Nam trong vòng 15 năm qua.

Bà Hoa Nguyễn, trưởng phòng ban Khảo sát lương và tư vấn nhân sự theo cách thức Mercer của Talentnet nhận định: “Với điều kiện kinh doanh không có nhiều thay đổi và lạm phát được dự báo thấp hơn, mức tăng lương năm 2014 (10.4%) là ngang bằng với năm ngoái và được dự báo sẽ duy trì đến năm sau.”

Do không chịu tác động từ các biến động kinh tế nhiều như những ngành khác, Dược phẩm, Hàng tiêu dùng và Hoá chất là ba ngành có tỉ lệ tăng lương cao nhất với mức tăng xấp xỉ 11%.



Ngược lại, ngành dịch vụ tài chính bao gồm bất động sản và nhà băng có tỉ lệ tăng lương thấp nhất ở mức 8.4% và 8.9%, do nhu cầu thị trường có xu hướng giảm trước điều kiện kinh tế còn nhiều biến động.

Xét theo vị trí công tác, các công việc kỹ sư có mức lương cao nhất so với thị trường, cao hơn 3.5%, liền sau là tài chính, kế toán (cao hơn thị trường 1.2%) và luật (0.7%). Trong khi đó, công tác bán hàng qua điện thoại, và sinh sản có tỷ lệ lương thấp nhất so với thị trường (thấp hơn 16% và 15.8% so với thị trường).

Theo kết quả khảo sát, sự chênh lệch mức chi trả giữa tổ chức trong nước và nước ngoài vẫn ở mức cao là 30%. Ngoài ra, sự dị biệt đang dần được nới rộng từ cấp chuyên viên đến cấp quản lý và Ban Giám Đốc.

Các công ty trong nước thường chi trả mức thưởng cao hơn các tổ chức nước ngoài. Hiện tại, để thu hút nhân kiệt, đơn vị trong nước sẵn lòng chi trả vượt quá khoảng lương cho vài vị trí chủ chố hoặc cấp cao.

“Bên cạnh đó, sẽ mất một vài năm nữa để mức chi trả ở các tổ chức lớn trong nước theo kịp với các công ty nước ngoài. Ngày nay, để thu hút, khuyến khích và giữ chân các nhân viên tuấn kiệt, tổ chức trong nước thường sử dụng các ưu đãi như cấp cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu…” – Bà Hoa cho biết.



Xét thêm về các khoản thưởng, ngành nhà băng và dầu khí có mức thưởng cao nhất tương ứng 22,7% và 17,7%, trong đó, các tổ chức trong nước vẫn chi trả cao hơn doanh nghiệp nước ngoài.

Ngành thương mại và công nghệ là hai ngành có mức thưởng thấp nhất so với thị trường. Ban Giám Đốc và cấp quản lý có mức thưởng cao nhất thị trường, nhưng không khác biệt so với năm ngoái.

Theo khảo sát lương, thưởng và phúc lợi 2014, các gói phúc lợi cho viên chức vẫn khá tương đồng như năm ngoái. Nếu bảo hiểm tai nạn và bảo hiểm y tế cá nhân (ngoại trú và nội trú) được dùng phổ quát ở các cấp, các phúc lợi khác như bảo hiểm nhân thọ và xe hơi được dùng để thu hút và giữ chân hào kiệt ở cấp quản trị.

Nhìn chung, tỷ lệ mất việc năm 2013 ở các ngành giảm từ 2-3% so với năm 2012. Tỷ lệ viên chức nghỉ việc năm 2013 đạt mức thấp nhất trong 5 năm qua với 12,2% ở các tổ chức nước ngoài.

Ngành Dược phẩm, Hàng tiêu dùng và Bảo hiểm chứng kiến tỷ lệ mất việc cao nhất, xảy ra do sự khan hiếm nhân công giỏi. Tuy nhiên, tỷ lệ này ở các công ty nước ngoài thấp hơn so với các công ty trong nước (12,2% và 17,1%).



Trưởng phòng kinh doanh, chuyên viên bán hàng và trưởng phòng tiếp thị vẫn là nhóm 3 công việc hot, được các đơn vị săn đón tuyển dụng và giữ chân nhiều năm qua.

Trong nghững năm kinh tế khó khăn, vị trí quản lý bán hàng càng trở nên quan trọng đối với đơn vị hơn so với vị trí tiếp thị vì nguồn doanh thu trực tiếp mang về cho tổ chức.

Số lượng các doanh nghiệp trong nước tham gia khảo sát năm nay tăng so với năm ngoái chứng tỏ rằng các đơn vị ngày một xem xét hệ thống lương thưởng một cách khá nghiêm trang. Các tổ chức đều mong muốn cải thiện và kiểm soát quỹ lương thưởng hiệu quả hơn.

Để nắm rõ độ cạnh tranh của mức lương, thưởng và trợ cấp của tổ chức so với toàn thị trường, các công ty sẵn sàng tham gia khảo sát và chi tiền cho báo cáo lương thưởng, từ đó giúp đưa ra các quyết định.

Tham gia khảo sát cũng giúp các tổ chức kiểm soát, phân bổ quỹ lương tốt hơn để khuyến kích được viên chức. Khảo sát lương cũng là một nguồn tham khảo uy tín khi các doanh nghiệp muốn linh hoạt chính sách chi trả để thu hút và giữ chân nhân tài.

Phan Minh

Huấn luyện nội bộ, những khó khăn tồn tại

(HR) Trong khi các doanh nghiệp trên thế giới coi huấn luyện như một chiến lược đầu tư quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh thì có nhiều doanh nghiệp Việt Nam coi huấn luyện như một khoản tổn phí cắt giảm càng nhiều càng tốt.

1 - Trong công ty, công việc tập huấn có cấp thiết hay không?

Sẽ có rất nhiều người giải đáp “có" cho câu hỏi này, nhưng hành động của đa số trên thực tiễn lại đi theo chiều hướng ngược lại.

Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược huấn luyện gắn liền với tầm nhìn và mục đích cụ thể của doanh nghiệp. Kế hoạch đào tạo hàng năm cũng chưa có, hoặc có thì cũng rất sơ lược hình thức. Bức tranh trong nhiều doanh nghiệp bây giờ là: lãnh đạo không đích thực quan tâm đến công việc huấn luyện, không có cán bộ cáng đáng huấn luyện, hoặc có thì cũng thiếu năng lực, kinh tổn phí đào tạo quá eo hẹp, không xác định được nhu cầu huấn luyện của viên chức, không có các giải pháp triển khai kế hoạch tập huấn, không kiểm tra được hiệu quả của công tác huấn luyện…

Nhiều giám đốc đơn vị quan niệm huấn luyện là bổn phận của xã hội. Họ chỉ   tuyển dụng   những cán bộ lành nghề, đã được huấn luyện và biết làm việc. Nhưng thực tế đã chỉ ra rằng, chiến lược   tuyển dụng   sáng ý cũng không thay thế được công tác đào tạo trong công ty. Các nhà tuyển dụng khôn ngoan này thường xuyên gặp phải các vấn đề như: giá của những ứng cử viên giỏi ngày càng leo thang và không phải khi nào trên thị trường lao động cũng có sẵn những người tìm việc thích hợp với đề nghị của họ. Đặc biệt với những chuyên môn gắn liền với thực tế của đơn vị, huấn luyện phát triển   nhân sự   có sẵn bên trong công ty thường nhật là biện pháp tối ưu nhất.

Một thực tiễn mà chúng ta thừa nhận là chất lượng giáo dục tập huấn của Việt Nam chưa cao. Hồ hết các người tìm việc mới ra trường đều cần huấn luyện lại trước khi được chính thức giao việc. Điều này đúng cả với những ứng cử viên đã tốt nghiệp đại học và trên đại học. Nền giáo dục Việt Nam chịu nhiều liên quan phương pháp dạy học cơ bản của Châu Âu (tại Anh, người ta có lề thói đề cao những ngành học căn bản, đồng thời hết sức coi thường ngành học mang tính thực hành, tỉ dụ như ngành công trình, ngược lại ở Mỹ, phạm vi tập huấn Đại học rộng và mang tính hướng nghiệp hơn, tỉ dụ có cả ngành quản lý sân golf). Không một trường Đại học nào ở Việt Nam hướng tới thực tiễn của các ngành công nghiệp như ở Mỹ. Chính thành ra, các công ty Việt Nam, đặc biệt là các đơn vị làm việc trong các ngành công nghệ có tốc độ đổi thay nhanh, đều phải đào tạo bổ sung rất nhiều cho các nhân viên mới tuyển dụng, trước khi có thể chính thức giao việc cho họ.

Ai cũng biết, muốn có năng suất lao động cao thì phải nhân ái viên giỏi. Một nhân viên văn phòng có khả năng đánh máy 60 từ/phút vững chắc sẽ có năng suất cần lao cao hơn nhân viên mổ cò trên bàn phím. Nhưng phần nhiều trong chúng ta chỉ biết phàn nàn về sự thấp kém của viên chức mà không chịu nhận thức rằng, nếu được đào tạo tốt, họ sẽ khá hơn rất nhiều. Như trong trường hợp trên, chỉ sau hai tuần tập huấn bài bản, một viên chức văn phòng bất kỳ có thể đạt tới tốc độ 50 - 60 từ/phút.

2 - tại sao công tác huấn luyện trong tổ chức khó khai triển?

Một số giám đốc thực thụ nhận thức được tầm quan trọng của công tác huấn luyện trong công ty, nhưng than phiền là rất khó khai triển tốt công tác này. Quả thật có rất nhiều khó khăn như:

Không có cán bộ đảm nhận đào tạo đủ năng lực: Nhiều doanh nghiệp không tiếc công sức săn lùng, sẵn sàng trả   lương   cao, nhưng cũng không tìm được nhân sự như ý. Hầu hết những ứng viên vào vị trí này, hiện có trên thị trường, chỉ đủ khả năng quản lý công tác huấn luyện về mặt hành chính, trong khi chúng ta mong muốn là cán bộ đảm trách tập huấn phải có khả năng khai triển chính sách huấn luyện của đơn vị, có khả năng xây dựng chiến lược đào tạo, lập và triển khai kế hoạch huấn luyện...

Khó bố trí được thời kì huấn luyện: phần nhiều các nhân viên trong các công ty thành công, đều có kế hoạch công việc bận rộn tối đa. Hồ hết họ không có thời kì tham gia các khóa tập huấn hội tụ, đặc biệt là các khóa tụ tập dài ngày.

Kinh phí tổn huấn luyện eo hẹp

Viên chức sau khi được huấn luyện bỏ việc, chuyển cơ quan khác...

Những khó khăn nêu trên vẫn chưa phải là trở ngại lớn nhất. Các đơn vị thực thụ đã triển khai công tác đào tạo đều thừa nhận hai khó khăn to lớn sau đây:

Một là, làm thế nào để xác định đúng nhu cầu huấn luyện của doanh nghiệp. Thiếu, thừa hay sai đều mang lại thiệt hại cho doanh nghiệp. Mỗi công ty phải chỉ ra: ai, khi nào, cần tập huấn cái gì? Nhu cầu huấn luyện phải gắn liền với thực tế của tổ chức. Nó phải phục vụ cho chiến lược kinh doanh, góp phần đạt được các mục tiêu của từng giai đoạn cũng như tầm nhìn của công ty.

Hai là, làm thế nào có thể tổ chức đáp ứng các nhu cầu trên một cách hiệu quả. Về nguyên tắc, trong nền kinh tế thị trường, chỉ cần có nhu cầu thì sẽ được đáp ứng. Ngoại giả, trong thực tại, việc công ty đáp ứng các nhu cầu đào tạo cho một đơn vị không dễ dàng. Bị giới hạn về tài chính, bị hạn hẹp về thời gian, bị ràng buộc bởi thực tại, nhiều tổ chức không tìm ra phương án đáp ứng các nhu cầu đào tạo. Các chương trình có sẵn của các trung tâm đào tạo thì không ăn nhập. Thiết kế các chương trình dành riêng cho mỗi tổ chức thì quá tốn kém. Khi nhu cầu đào tạo không đáp ứng một cách tốt nhất, thì hiệu quả của công tác đào tạo cố nhiên sẽ không cao.

3. Giải pháp?

Nhiều đơn vị chọn huấn luyện nội bộ như là một giải pháp hữu hiệu. Một mặt huấn luyện nội bộ giải quyết được vấn đề kinh phí, mặt khác yếu tố tập huấn gắn liền được với thực tại công ty được giải quyết tốt hơn rất nhiều. Tuy nhiên đào tạo nội bộ cũng vấp phải những rào cản riêng đó là: những giảng sư kiêm chức hay cán bộ quản lý cấp trung có thể rất giỏi về chuyên môn nhưng không được huấn luyện bài bản về phương pháp truyền đạt, trong khi để đạt được hiệu quả cao, cách thức giảng dạy được coi là nguyên tố quan trọng hàng đầu.

Làm thế nào để toá gỡ được khó khăn này?

Bây giờ trên thị trường có rất nhiều tổ chức tập huấn có chương trình tập huấn cho các giảng sư kiêm chức về phương pháp giảng dạy . Với một phí đầu tư vừa phải, thời kì linh hoạt, có thể đề xuất thiết kế chương trình phù hợp với nhu cầu và đặc biệt là với công nghệ giảng dạy hiện đại, các giảng sư kiêm chức hoàn toàn có thể trở nên giảng sư chuyên nghiệp trong lĩnh vực của mình (Thậm chí có thể được TOT tập huấn để trở nên giảng sư trong các lĩnh vực như kỹ năng mềm hay kỹ năng quản lý lãnh đạo, một lĩnh vực tập huấn mà bây giờ các doanh nghiệp rất đang quan hoài)

Quantri.Vn